Báo cáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải Toán điển hình cho học sinh Lớp 4
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải Toán điển hình cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải Toán điển hình cho học sinh Lớp 4
1. Lí do chọn biện pháp: Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở ban đầu cho mọi quá trình giáo dục ở các cấp học tiếp theo nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Điều 27 luật Giáo dục năm 2005: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”. Ở bậc Tiểu học, việc học toán giữ một vai trò quan trọng. Nó góp phần vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy hình thành nhân cách. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú và những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Nhờ học toán học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới đáp ứng được yêu cầu của công nghệ 4.0. Chất lượng giải toán của học sinh phụ thuộc nhiều vào phương pháp dạy học của giáo viên. Vì phương pháp, hình thức dạy học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học ở Tiểu học. Mỗi giáo viên cần lựa chọn, sử dụng phương pháp, hình thức thích hợp để giúp học sinh tìm ra được cách giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặc biệt nhấn mạnh đến việc hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần thiết cho cuộc sống. Đây là những tri thức, kĩ năng vừa đáp ứng nhu cầu học tập của người lao động trong thời đại khoa học công nghệ vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực cho cuộc sống. Vì vậy, môn Toán cùng các môn học khác đã góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học. Giải toán có lời văn ở Tiểu học được chia thành: bài toán đơn và bài toán hợp. Trong bài toán hợp có các bài toán điển hình (bài toán có phương pháp giải thống nhất) mà nhiều bài toán điển hình được đưa vào giảng dạy ở lớp 4. Tuy đã có sự chuẩn bị ở các lớp dưới theo nguyên tắc đồng tâm song khi làm bài, học sinh thường mắc lỗi sai do không nắm được bản chất của dạng bài, không biết phân loại các dạng bài và cách giải từng dạng bài. Một số em không nhớ được công thức tính, còn lẫn lộn công thức dạng toán này với công thức dạng toán kia, hay còn nhớ máy móc. Nên khi vận dụng vào làm bài tập còn lúng túng dẫn đến tình trạng học sinh làm bài hay sai, chưa hoàn thành nội dung, yêu cầu bài học của toán điển hình và chiếm chiếm tỉ lệ khá cao so với các nội dung khác. Bên cạnh đó, hiện nay ở trường Tiểu học, phần lớn giáo viên thường truyền đạt kiến thức có sẵn trong SGK hay sách hướng dẫn theo mẫu có sẵn, học sinh đa số cũng hiểu bài nhưng chưa hiểu được ý nghĩa và bản chất của nội dung bài, chưa vận dụng được vốn kiến thức và những kinh nghiệm của mình, làm bài tập còn thụ động nên khi gặp bài toán khác mẫu là không làm được. Việc sử dụng phương pháp mới của giáo viên còn lúng túng, không linh hoạt, không thường xuyên nên chưa mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy. Đặc biệt đây là những nội dung kiến thức khó dạy nên còn khó khăn cho đội ngũ giáo viên khi giảng dạy. Chính vì những lý do nói trên tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4” nâng cao hiệu quả trong dạy học toán ở lớp 4. 2. Nội dung biện pháp 2.1. Thực trạng việc dạy và học giải toán điển hình lớp 4 ở Trường Tiểu học Quảng Lưu: * Giáo viên - Những việc đã làm được: Những năm gần đây, cùng với việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, trong đó giáo viên là người hướng dẫn, dẫn dắt học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng cũ để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức vào luyện tập thực hành. Cụ thể là: - Giáo viên đã chủ động xây dựng kế hoạch bài học, đầu tư nhiều thời gian để nghiên cứu bài, xem xét bài sẽ dạy trong mối quan hệ với bài trước và bài sau. Mỗi bài cần vận dụng kiến thức kĩ năng gì của bài trước. - Giáo viên đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau như phương pháp nêu vấn đề, trình bày trực quan, giảng giải, đàm thoại,để dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới. Với những bài cung cấp lí thuyết, để học sinh chủ động tiếp thu bài, giáo viên yêu cầu học sinh thoát li bài giải mẫu trong sách giáo khoa. Bài giải mẫu đó để học sinh xem bài trước khi đến lớp, để học sinh xem lại sau khi nghe giáo viên giảng. - Giáo viên dành nhiều thời gian để học sinh luyện tập thực hành. - Giáo viên đã tạo được cho học sinh thói quen tự kiểm tra đánh giá và đổi vở cho nhau để kiểm tra. - Sau mỗi bài học, giáo viên đã sáng tạo nhiều hình thức củng cố bài có hiệu quả. - Những tồn tại hạn chế: + Thường hướng dẫn học sinh khai thác bài toán theo khuôn mẫu, rập khuôn, chưa có sự sáng tạo như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Muốn tìm ta làm thế nào? Cách làm như vậy thông thường chỉ những học sinh đã biết cách làm hoặc những học sinh nổi trội mới trả lời được câu hỏi thứ 3 ở trên. + Khi hướng dẫn học sinh giải toán thường sử dụng phương pháp phân tích nhiều hơn phương pháp tổng hợp nên học sinh còn non về kiến thức kĩ năng khó tiếp thu, đặc biệt là đối với các lớp có nhiều đối tượng học sinh này. + Sử dụng sách giáo khoa như nhau đối với mọi đối tượng học sinh. Học sinh tiếp thu tốt phải chờ đợi học sinh tiếp thu chậm. + Không chú trọng sơ đồ khi giải toán điển hình. + Không nhấn mạnh các bước giải của toán điển hình. Không so sánh các bước giải của các dạng toán điển hình có cách giải tương tự như nhau. + Đối với lớp có nhiều học sinh nổi trội, trình độ tương đối đồng đều, giáo viên hướng dẫn học sinh quá kĩ, học sinh làm hết bài trong sách giáo khoa nhưng giáo viên không có cách nào để sử dụng thời gian còn lại của tiết học. + Giáo viên không hướng dẫn học sinh kiểm tra lại kết quả và tìm cách giải khác. * Học sinh: - Những việc đã làm được: Đa phần học sinh đã biết nhận dạng các dạng toán điển hình, biết vận dụng các công thức, quy tắc để làm đúng các dạng bài toán cơ bản. Biết tự tóm tắt bài toán bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng, biết trình bày bài khoa học và theo các bước giải cơ bản. Một số em cũng đã sáng tạo trong việc đặt các lời giải và cách giải khác nhau cho một bài toán. - Những tồn tại, hạn chế Qua điều tra, tôi nhận thấy đa số học sinh nắm được kiến thức cơ bản về giải toán điển hình. Tuy nhiên với cách dạy của giáo viên hiện nay thì học sinh còn có những sai sót, gặp một số khó khăn như sau: + Một số học sinh không nhận được đúng dạng toán hoặc lẫn lộn dạng toán này với dạng toán kia. + Một số học sinh nhận được dạng toán nhưng khi làm bài còn lúng túng các bước giải. + Học sinh viết thiếu dữ kiện của đề bài. + Thao tác vẽ sơ đồ đoạn thẳng còn chậm, sai dạng toán, thiếu dữ kiện trên sơ đồ,... + Khi làm bài, học sinh còn trả lời sai, câu trả lời chưa đầy đủ. + Ngoài ra học sinh còn tính toán sai, sai tên đơn vị hoặc thiếu đơn vị. Từ những thống kê trên, tôi đã tiến hành khảo sát, kiểm tra 30 học sinh của lớp 4D mà tôi trực tiếp giảng dạy thu được kết quả như sau: Sĩ số Điểm 9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 30 3 10 5 16.7 9 30 13 43,3 Những sai sót phổ biến Số lượng % Không nhận diện được dạng toán 9 30 Hiểu sai đối tượng 8 26,7 Thiếu dữ kiện 10 33,3 Thiếu đơn vị 5 16,7 Trả lời chưa đầy đủ 13 43,3 Trả lời sai 6 20 Sai kết quả phép tính 8 26,7 * Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế: - Đối với giáo viên: + Do giáo viên có ít thời gian nghiên cứu bài, chưa dành nhiều thời gian cho việc tham khảo tài liệu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. + Giáo viên chưa linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học, còn dùng các phương pháp như nhau đối với tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. + Giáo viên chưa thật sự coi trọng việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong dạy học giải toán điển hình. + Giáo viên chưa nhấn mạnh rõ các bước giải của toán điển hình và không so sánh sự giống, khác nhau của các dạng toán có cách giải tương tự. + Giáo viên chưa giúp học sinh khai thác sâu sơ đồ đoạn thẳng để nắm vững bản chất của các phép tính trong công thức tính tránh nhầm lẫn. - Đối với học sinh: + Một số học sinh kĩ năng tính toán còn chậm, học sinh hiểu nhầm ý nghĩa của phép tính. + Một số em không nhận dạng được các dạng toán điển hình. Còn nhầm lẫn các dạng toán điển hình. Khi mới học xong mỗi dạng toán, học sinh làm được nhưng khi học các dạng toán khác, học sinh nhầm lẫn các dạng toán với nhau. + Vẫn còn học sinh nhận dạng được các dạng toán điển hình nhưng không biết cách giải là do học sinh không phân biệt được cách giải của từng dạng toán. + Một số em không đọc kĩ đề bài nên lẫn lộn giữa các đối tượng trong bài toán (Ví dụ: kho 2 hiểu thành kho 1, số thứ nhất hiểu thành số thứ hai,...). + Một số ít giáo viên chưa chú trọng việc hướng dẫn học sinh khi vẽ sơ đồ nên trong khi vẽ sơ đồ, học sinh ghi thiếu yếu tố, thiếu đơn vị. Đặc biệt, nhiều em chưa biết dựa vào sơ đồ để hiểu bản chất của các phép tính trong công thức tính, phải nhớ máy móc. Nên dễ quên, dễ nhầm lẫn giữa các dạng toán. 2.2. Biện pháp rèn kĩ năng giải toán điển hình cho học sinh lớp 4: 2.2.1. Xây dựng nền nếp học tập, kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ngay từ đầu năm học. Điều đầu tiên tôi quan tâm tới chất lượng học tập của học sinh ngay khi nhận lớp đó chính là phải xây dựng ngay được một nền nếp học tập thật tốt. Không phải người thầy khi lên lớp chỉ chú ý tới việc quản lý lớp học, giữ trật tự lớp học, tới việc giảng dạy và việc học tập của học sinh mà còn phải hình thành ở các con thói quen cầm, sử dụng sách vở, sự chuẩn bị và kĩ năng sử dụng các loại đồ dùng học tập như thước kẻ, chì, compa, ê-ke, giấp nháp, màu,...Đây các đồ dùng này không thể thiếu khi học các dạng toán điển hình. Tôi quy định rõ ràng, khi nào sử dụng vở ô li để làm bài, khi nào làm vào giấy nháp, khi nào phải làm bài một cách độc lập(làm việc cá nhân) còn khi nào thì phải thảo luận nhóm. Ngay từ những bài học đầu tiên đầu năm học, tôi đã hướng dẫn từng học sinh thật kĩ cách sử dụng thước kẻ, com pa, ê-ke, chì... trong vẽ sơ đồ đoạn thẳng cũng như cách ước lượng độ dài các đoạn thẳng phù hợp, các phần bằng nhau(dựa vào tỉ số của hai số). Hay như cách vẽ trên sơ đồ kí hiệu phần tổng – hiệu, các nét đứt thể hiện yêu cầu của bài toán....Đây là những bắt buộc mọi học sinh trong lớp phải thực hiện và làm theo. Lúc đầu nhiều học sinh còn lúng túng, khó khăn trong việc vẽ chính xác các sơ đồ đoạn thẳng theo yêu cầu, nhưng sau từng tiết học, buổi học với việc hướng dẫn uốn nắn kĩ cho từng học sinh thì các em đã hình thành các kĩ năng cơ bản này. Từ đó, giáo viên rất dễ dàng trong việc tổ chức lớp học cũng như kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập của học sinh ở các tiết học sau. 2.2.2. Cần làm cho học sinh hiểu kĩ về ý nghĩa của các phép tính, rèn kĩ năng tính toán: Các mạch kiến thức trong môn Toán có liên quan chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Khi học sinh giải toán, một điều quan trọng không thể thiếu đó là học sinh phải thực hiện các phép tính. Song thực tế, không ít học sinh còn hổng kiến thức về ý nghĩa của phép tính, kĩ năng thực hiện phép tính chưa thành thạo.Vì vậy việc trang bị những kiến thức về ý nghĩa phép tính là rất quan trọng, cần thiết giúp học sinh trong từng tình huống cần làm phép tính gì cho phù hợp. Bài toán 1: Viết phép tính thích hợp trong mỗi tình huống sau: a. Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Hai ít hơn khối lớp Một 32 học sinh. Hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? b. Khối lớp Một có 245 học sinh, khối lớp Một ít hơn khối lớp Hai 32 học sinh. Hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh? c. Bạn Bình sưu tầm được 35 con tem, Bình sưu tầm được nhiều hơn Hoa 8 con tem. Hỏi bạn Hoa sưu tầm được bao nhiêu con tem? d. Bao ngô cân nặng 35kg, bao ngô nhẹ hơn bao gạo 15kg. Hỏi bao gạo cân nặng bao nhiêu ki – lô - gam? e. Hiện nay mẹ 35 tuổi. Tuổi mẹ gấp 5 lần tuổi con. Hỏi con bao nhiêu tuổi? g. Số thứ nhất là 120. Nếu số thứ hai giảm đi 2 lần thì được số thứ nhất. Tìm số thứ hai. Bài toán 2: Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống: _ + a. 87546 b. 943 c. _ 7836 d. 10000 10594 + 510 743 462 86 Bài toán 3: Đặt tính rồi tính: a. 4675 + 45327 b. 8634 - 3059 c. 621 x 27 d. 25863 : 51 e. 397540 : 187 Bài toán 4: Sai ở đâu? x + _ a, 3472 b, 38 c, 12345 67 d, 24760 5268 24 564 1714 5749 8640 152 95 18011 76 285 228 17 * Trong bốn bài tập trên, mỗi bài tập có một mục đích khác nhau: Bài tập 1 nhằm giúp học sinh ôn lại, củng cố ý nghĩa của phép tính: Tình huống a, “ít hơn” có nghĩa là học sinh phải làm tính trừ. Nhưng không phải khi nào thấy “ít hơn” cũng làm tính trừ. Tình huống b, “ ít hơn” nhưng học sinh phải làm tính cộng vì bài toán cho khối lớp Một ít hơn khối lớp Hai là 32 học sinh có nghĩa là khối lớp Hai nhiều hơn khối lớp Một 32 học sinh (vì bài toán hỏi khối lớp Hai có bao nhiêu học sinh?). Tình huống c, d tương tự như tình huống b. Song ở tình huống d, bao ngô nhẹ hơn bao gạo có nghĩa là bao gạo cân nặng hơn bao ngô. Trong tình huống này, “nhẹ hơn” lại phải chọn phép tính cộng. Với phép nhân và phép chia, thông thường khi gặp các thuật ngữ : “gấp” (một số lần) thì học sinh phải chọn phép tính nhân, “giảm” (một số lần) thì làm phép tính chia. Nhưng ở tình huống e thì ngược lại: Khi tuổi mẹ gấp 5 lần tuổi con mà muốn tìm tuổi con thì phải chọn phép tính chia. Và ở tình huống g, số thứ hai giảm đi 2 lần thì được số thứ nhất có nghĩa là số thứ hai gấp 2 lần số thứ nhất. Mục đích của bài tập 2, bài 3 là giúp học sinh rèn kĩ năng thực hiện 4 phép tính: cộng, trừ, nhân, chia. Đặc biệt cần hướng dẫn học sinh cách ước lượng thương. Để làm được bài tập 4, học sinh phải có kĩ năng tính thành thạo mới chỉ ra được sai ở đâu, tại sao sai và có thể làm lại cho đúng. 2.2.3. Rèn kĩ năng nhận dạng các dạng toán: Trong quá trình giải toán điển hình, mỗi lần gặp một bài toán mà học sinh lại phải tính lại từ đầu thì sẽ rất lâu, mất nhiều thời gian. Vì vậy cần rèn cho học sinh nhận dạng nhanh các dạng toán. Từ đó, học sinh huy động vùng kiến thức, kĩ năng cần thiết vào giải bài toán. Bài toán 1: Không giải bài toán, hãy đánh dấu nhân vào ô trước bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”. Có 60 tấn thóc chứa trong 2 kho, kho lớn chứa gấp 4 lần kho nhỏ. Hỏi mỗi kho chứa bao nhiêu tấn thóc? Có 60 tấn thóc chứa trong 2 kho, kho lớn chứa hơn kho nhỏ 4 tấn thóc. Hỏi mỗi kho chứa bao nhiêu tấn thóc? Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 50 tuổi. Bố hơn con 28 tuổi. Tính tuổi mỗi người. Bài toán 2: Hãy cho biết sơ đồ sau thuộc dạng toán nào? Bài toán 3: Mỗi bài toán sau thuộc dạng toán gì? a. Lớp 4A có 4 tổ, trung bình mỗi tổ có 9 bạn. Số bạn nữ nhiều hơn số bạn nam là 4 bạn. Hỏi lớp 4A có bao nhiêu bạn nam, bao nhiêu bạn nữ? b. Hiệu hai số là 738. Tìm hai số đó biết thương của chúng là 9. c. Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 125m, chiều rộng bằng chiều dài. Tính diện tích của hình chữ nhật đó. * Các bài tập trên, mỗi bài tập cũng có một mục đích khác nhau: bài tập 1 đã cho sẵn dạng toán nên trong số 3 bài toán đã cho, chắc chắn có bài toán thuộc dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”. Học sinh chỉ cần đọc kĩ đề bài và chọn bài toán phù hợp với yêu cầu . Bài tập 2 cho sẵn sơ đồ song không cho đề toán, học sinh chỉ dựa vào sơ đồ và nhận dạng toán (Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó). Bài tập 3 không cho sẵn sơ đồ, chỉ có đề toán. Mỗi bài toán lại có các từ ngữ mà học sinh dễ nhầm lẫn các dạng toán. Để nhận dạng được dạng toán trong trường hợp này, học sinh phải sử dụng phương pháp phân tích để sàng lọc những yếu tố rườm rà, chú ý từ ngữ quan trọng. 2.2.4. Rèn kĩ năng trình bày bài giải: - Rèn kĩ năng vẽ sơ đồ đoạn thẳng Mục đích của “tóm tắt” bài toán là thu gọn bài toán theo giả thiết, kết luận của bài toán rồi từ đó tìm ra cách giải bài toán một cách hợp lí. Bởi vậy, vẽ sơ đồ đoạn thẳng trước khi giải bài toán là cần thiết. Bài toán: Hiện nay mẹ hơn con 27 tuổi. Tuổi mẹ gấp 4 lần tuổi con. Tính tuổi mỗi người. (Hãy chọn sơ đồ đúng với đề toán trên. ) Sơ đồ 1: Sơ đồ 2: Sơ đồ 3: * Thoạt nhìn 3 sơ đồ của bài toán trên, học sinh có thể nhầm lẫn: sơ đồ nào cũng đúng. Song phân tích kĩ thì thấy: + Sơ đồ 1: thiếu đơn vị (“tuổi” sau dấu “?”) + Sơ đồ 2: đúng (có đầy đủ dữ kiện, điều kiện, yêu cầu của bài toán). + Sơ đồ 3: vẽ sai tỉ số. Chính vì vậy, trong khi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ, giáo viên cần hướng dẫn kĩ, cụ thể, đồng thời khắc sâu giúp các em không nhầm lẫn dạng toán, điền đầy đủ các dữ kiện, yêu cầu của bài toán trên sơ đồ. Đồng thời hướng dẫn cho các con thực hành nhiều lần để các con thành thạo trở thành kĩ năng vẽ sơ đồ ngay từ những bài học đầu tiên. - Rèn kĩ năng viết câu lời giải Với bất kì bài toán có lời văn nào, khi làm bài giải, học sinh đều phải viết câu trả lời, viết phép tính tương ứng, viết đáp số. Nhiều học sinh chọn được phép tính đúng song câu trả lời chưa đầy đủ hoặc trả lời sai. Vì vậy, việc rèn kĩ năng viết câu trả lời là rất cần thiết. Trình bày lời giải là khâu quan trọng, học sinh có những sai lầm gì để có biện pháp thích hợp. Song để có câu trả lời đúng, đủ thì phải rèn từng bước. - Cho sẵn một số từ ngữ, học sinh điền tiếp để được câu trả lời đúng Bài toán 1: Trong một buổi lao động trồng cây, lớp 4A và lớp 4B trồng được 204 cây. Lớp 4A trồng nhiều hơn lớp 4B 6 cây. Hỏi mỗi lớp trồng được bao nhiêu cây? ? cây Lớp 4A: 6 cây 204 cây Lớp 4B: ? cây Bài giải Hai lần . của lớp .là: 204 + 6 = 210 (cây) Số cây của lớp .. trồng được là: 210 : 2 = 105 (cây) Số cây của lớp ..trồng được là: 204 – 105 = 99 (cây) Đáp số: Lớp : 105 cây. Lớp ....: 99 cây. * Bài giải trên cho sẵn câu trả lời xong câu trả lời chưa đầy đủ. Mỗi câu trả lời đều thiếu những từ ngữ quan trọng, học sinh phải suy nghĩ để điền vào chỗ chấm để thành câu trả lời đúng, đủ, phù hợp với phép tính đã cho. - Đưa phép tính, học sinh điền lời giải Điền lời giải tương ứng với phép tính cho mỗi bài toán sau: Bài toán 2: Một nông trường nuôi 325 con bò. Biết số bò thường bằng số bò sữa. Tính số bò mỗi loại. Bài giải Ta có sơ đồ: ? con Số bò thường: 325 con Số bò sữa: ? con ...: 2 + 3 = 5 (phần) ....: 325 : 5 x 2 = 130 (con) ....: 325 - 130 = 195 (con) Đáp số: .: 130 con ..: 195 con * Để làm được các bài tập trên, học sinh phải đọc kĩ bài toán, xác định được dạng bài. Các phép tính đã cho là điểm tựa để học sinh viết câu lời giải đúng. 2.2.5. Rèn kĩ năng vận dụng giải các dạng toán điển hình: Để rèn kĩ năng giải bài toán mới cho học sinh nên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó. Các bài tập dễ là các bài tập vận dụng trực tiếp quy tắc hoặc công thức hay vận dụng các bài toán mẫu. Các bài toán khó là các bài tập mà các dữ kiện không cho dưới dạng tường minh hoặc câu hỏi của bài toán được hỏi dưới dạng khác các câu hỏi thường gặp trong các bài toán dễ; cũng có thể đó là các bài tập có yêu cầu cao hơn, phải suy luận mới tìm ra cách giải. Đối với những bài tập dễ có thể để học sinh tự làm sau đó nhắc lại quy tắc, công thức. Đối với những bài toán khó hơn: Đưa về các bài toán đơn, dùng hệ thống câu hỏi gợi ý để hướng dẫn. - Dạng toán :Tìm số trung bình cộng. Bài toán 1: Tìm số trung bình cộng của các số sau: 52; 40; 73. Bài toán 2: Có một số ô tô chở muối lên vùng cao, 4 ô tô đi đầu, mỗi ô tô chở được 31 tạ và 4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chở được 49 tạ. Hỏi trung bình mỗi ô tô chở được bao nhiêu tấn muối? Bài toán 3: Trung bình cộng của hai số là 50. Tìm hai số đó biết số lớn gấp 3 lần số bé. * Các bài toán trên được sắp xếp theo mức độ nâng cao dần: Bài toán 1: Học sinh chỉ cần áp dụng trực tiếp quy tắc là có thể làm được. Bài giải Số trung bình cộng của các số 52; 40; 73 là: (52 + 40 + 73) : 3 = 55 Bài toán 2: Học sinh cần xác định
File đính kèm:
bao_cao_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_giai_to.doc

