Hệ thống hóa kiến thức về truyện

pdf 7 trang Bình Lê 18/12/2024 40
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống hóa kiến thức về truyện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống hóa kiến thức về truyện

Hệ thống hóa kiến thức về truyện
HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC VỀ TRUYỆN
TT 
TÊN 
TÁC 
PHẨM 
TÁC GIẢ 
NĂM
SÁNG 
TÁC 
ĐẶC SẮC NỘI DUNG ĐẶC SẮC 
NGHỆ THUẬT 
1 Làng 
Kim Lân 
(1920 
– 
20/7/2007) 
1948 
Qua tâm trạng đau xót, tủi hổ
của ông Hai ở nơi tản cư khi
nghe tin đồn làng mình theo
giặc, truyện thể hiện tình yêu
làng quê sâu sắc thống nhất
với lòng yêu nước và tinh
thần kháng chiến của người
nông dân. 
Thành công trong 
việc xây dựng
tình huống truyện
& 
trong nghệ thuật
miêu tả tâm ly và
ngôn ngữ nhân
vật. 
2 
Lặng
lẽ 
Sa Pa 
Nguyễn
Thành 
Long 
(1925 – 
1991) 
1970 
Cuộc gặp gỡ tình cờ của ông
họa sỹ, cô kỹ sư mới ra
trường với người thanh niên
làm việc một mình tại trạm
khí tượng trên núi cao Sa Pa.
qua đó, truyện ca ngợi những
con người lao động thầm
lặng, có cách sống đẹp, cống
hiến sức mình cho đất nước. 
Nghệ thuật xây
dựng tình huống
truyện hợp lý,
cách kể chuyện tự
nhiên, kết hợp
giữa tự sự, trữ
tình và bình luận. 
3 
Chiếc 
lược
ngà 
Nguyễn
Quang 
Sáng 
(1932) 
1966 
Câu chuyện éo le và cảm
động về hai cha con: ông Sáu
và bé Thu trong lần ông về
thăm nhà và ở khu căn cứ.
qua đó truyện ca ngợi tình
cha con thắm thiết trong hoàn
cảnh chiến tranh.
Thành công trong 
nghệ thuật miêu
tả tâm lý và xây
dựng tính cách
nhân vật, mà nổi
bật là nhân vật bé
Thu.
4 
Bến
quê 
Nguyễn
Minh Châu 
In 
trong 
Qua những cảm xúc và suy
ngẫm của nhân vật Nhĩ vào
Nghệ thuật viết
văn tự sự phối
TT 
TÊN 
TÁC 
PHẨM 
TÁC GIẢ 
NĂM
SÁNG 
TÁC 
ĐẶC SẮC NỘI DUNG ĐẶC SẮC 
NGHỆ THUẬT 
(20/10/193
0 
 
23/1/1989) 
tập
Bến
quê 
(1985) 
lúc cuối đời trên giường
bệnh, truyện thức tỉnh ở mọi
người sự trân trọng những
giá trị và vẻ đẹp bình dị, gần
gũi của cuộc sống, của quê
hương. 
hợp với miêu tả
cảnh, miêu tả nội
tâm đặc sắc và
giàu triết lý. 
5 
Những
ngôi 
sao xa 
xôi 
Lê Minh 
Khuê 
(1949) 
1971 
Cuộc sống, chiến đấu của ba
cô gái thanh niên xung phong 
trên một cao điểm ở tuyến
đường Trường Sơn trong
những năm chiến tranh
chống Mỹ cứu nước. truyện
làm nổi bật tâm hồn trong
sáng, giàu mơ mộng, tinh
thần dũng cảm, cuộc sống
chiến đấu đầy gian khổ, hy 
sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc
quan của họ. 
Nghệ thuật kể
chuyện và miêu
tả đặc sắc. 
BÀI 1: LÀNG. 
Kiến thức cần nhớ. 
I.Tác giả. 
 - Kim Lân tên là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 quê ở làng Phù Lưu, huyện
Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc. 
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
 - Kim Lân am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Truyện
của ông hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông
dân 
=>Chính hai đặc điểm trên đã tạo nên thành công của tác giả trong truyện
“Làng”. 
II. Tác phẩm : 
1. Đề 1: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng
chiến chống Pháp? 
Dàn ý. 
A. Mở bài : 
- Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền 
Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài 
nông dân. Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến 
chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc 
thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng 
chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước và tinh thần của 
người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm 
cao đẹp và đáng quý đó. 
B .Thân bài: 
1. Giới thiệu tình yêu làng nói chung: 
- Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất có tính truyền 
thống. Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng của mình vốn là tâm lý rất 
quen thuộc có tính gốc rễ. Vậy người nông dân thường tự hào, hãnh diện về 
làng: 
2. Luận điểm bao trùm bài nghị luận : Ở nhân vật ông Hai, tình yêu quê 
hương, yêu làng Dầu đã quyện chặt với lòng yêu nước. Đây là vẻ đẹp
đáng quý của nhân vật, cũng là điều tâm huyết nhất mà nhà văn muốn nói 
với người đọc. 
a. Luận điểm 1 : Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản cư. 
 - Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để
yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông.
Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo
dòng người ấy sơ tán đến một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn
khi phải xa làng. Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những
ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá. 
- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi
nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. 
- Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. 
Nghe được nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ
múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. 
b. Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng 
theo giặc: (Nhưng khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu 
tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên biến thành những nỗi lo 
âu, dằn vặt) 
 - Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão
nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở
được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng
rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”
làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước
cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với
ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc
của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa. 
 - Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành 
một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm 
mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về 
đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ
giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối 
bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy 
như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông 
cũng sẽ mang nỗi nhục ấy. 
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng 
tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười 
nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta 
đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng 
Tây, Việt gian, cam –nhông là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại 
chuyện ấy rồi!” 
- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được 
bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã
đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào 
nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào... Nhưng giờ đây.... dường như
mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và
tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng 
qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”.
Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm 
nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ 
Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, 
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết 
tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước. 
- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc 
bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi
thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở 
những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì 
đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn. 
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ 
Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông
như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn 
người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê 
hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc 
chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo 
con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc 
mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với 
cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như
thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”. 
c. Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng 
kháng chiến (Niềm vui của ông Hai khi tin đồn được cải chính). 
- Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, 
nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái 
tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông 
dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả 
loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự 
hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào 
ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng 
mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai 
thật là sâu sắc và cảm động. 
- So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước 
cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc 
trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối 
giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có 
những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những 
người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Khi cách 
mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. 
Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc 
đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình 
yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu 
nặng, nồng cháy. => Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng
chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước 
lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách 
mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân 
Việt Nam nói chung. 
- Văn hào I li a, E ren bua có nói: ” Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng 
quê trở nên lòng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm 
vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội 
nguồn của lòng yêu nước. 
d. Luận điểm 4: . Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai 
- Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão
nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt. 
+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong
bộc lộ chiều sâu tâm trạng. 
+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội
tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả
đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng
nhân vật. 
+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại.) 
C. Kết bài: 
- Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai. 
- Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai. 
Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người 
nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng 
nhân vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người 
nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có 
ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta 
có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng 
chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước. 
2. Câu 16( Bộ đề-Tr 63).
3. Câu 17( Bộ đề-Tr 63). 

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_hoa_kien_thuc_ve_truyen.pdf