Sáng kiến kinh nghiệm Lỗi chính tả của học sinh Lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông

doc 16 trang Bình Lê 29/04/2025 200
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Lỗi chính tả của học sinh Lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Lỗi chính tả của học sinh Lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông

Sáng kiến kinh nghiệm Lỗi chính tả của học sinh Lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông
Mục lục
 Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.3. Phương pháp nghiên cứu
 Nội dung 
1. Giới thiệu về trường tiểu học Lê Quý Đôn .
2. Số liệu thống kê
3. Lỗi chính tả của học sinh.
3.1. Lỗi chính tả do viết sai với phát âm chuẩn.
3.2. Lỗi do sai do quy tắc chính tả hiện hành. 
3.3. Lỗi do ảnh hưởng của phát âm địa phương
4. Một số biện pháp khắc phục lỗi cho học sinh.
4.1. Giáo viên cần luyện đọc, phát âm đúng chuẩn
4.2. Cần chú ý nhắc nhở học sinh phân biệt chữ thường và chữ viết in.
4.3. Hạn chế lỗi viết sai phụ âm đầu.
4.4. Khắc phục lỗi phát âm địa phương cho học sinh.
5. Một số kiến nghị.
 Kết luận.
Tài liệu tham khảo
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 
 	Khi ca ngợi về tiếng nói của của dân tộc, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã viết:
“ Ôi Tiếng Việt suốt đời ta mắc nợ
Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá, môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi, Tiếng Việt ân tình”
 ( Lưu Quang Vũ – Tiếng Việt)
	Quả đúng như vậy, mỗi người dân Việt nam, Tiếng việt là tiếng nói thân thương, kết tụ lại tinh hoa, truyền thống của dân tộc có từ bao đời. Và càng tự hào bao nhiêu chúng ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, giữ gìn nguồn tài sản quý giá đó để nó không bao giờ bị mai một.
	Xuất phát từ những suy nghĩ trên, trong quá trình dạy học mỗi nhà giáo chúng tôi đều dành nhiều tâm huyết, công sức để rèn giũa học sinh của mình có được kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) thành thạo. Có thể nói cả 4 kĩ năng trên đều góp phần hỗ trợ đắc lực việc học tập, giao tiếp cho học sinh đồng thời bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của ngôn ngữ dân tộc. và trong đó, phân môn chính tả giữ một vị trí then chốt nhằm phục vụ mục tiêu của môn tiếng Việt. Đây là một việc làm thường xuyên và được thực hiên qua một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải có sự kiên trì, bền bỉ.
	Nguười ta nói: “ nét chữ là nết người” cũng đúng. Con chữ phần nào thể hiện tính nết của người viết: Cẩn thận hay cẩu thả, chăm chỉ hay lười biếngVì vậy rèn luyện kĩ năng chính tả cho học sinh, giáo viên không chỉ rèn cho các em được một kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phát triển tư duy mà còn giúp từng em mở rộng hiểu biết về cuộc sống, góp phần hình thành nhân các con nguười mới – con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
	Là giáo viên nhiều năm liền được dạy khối lớp 1 – lớp đầu tiên của bậc tiểu học, tôi càng chú trọng nhiều hơn đến phân môn chính tả, bởi theo suy nghĩ của tôi: Đây là năm đầu tiên các em mới bở ngỡ bước vào học tập theo chương trình phổ thông chuẩn, việc học tập và rèn luyện chính tả cần phải được thực hiện ngay từ đầu tạo nền tảng vững chắc cho việc học tập và rèn luyện tiếng việt của các em sau này. Người ta thương nói “măng non dễ uốn” bởi vậy các em học sinh lớp 1 mới bắt đầu làm quen với việc học tập và rèn luyện chữ viết. Nếu chúng ta hình thành cho các em thói quen rèn luyện chữ viết ngay từ đầu thì sau này việc học tập và rèn luyện chữ viết của các em trở thành thói quen và kĩ năng, lúc đo sẽ tạo thuận lợi rất tôt cho việc học tập và giảng dạy phân môn tiếng Việt của thầy và trò.
	Vì lẽ đó tôi muốn qua đề tài “lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, Cư Jút –Đắk Nông” đúc rút những kinh nghiệm suy nghĩ của bản thân trong dạy phân môn chính tả lớp 1 để có dịp nhìn nhận lại quá trình dạy học của mình, từ đó sẽ tiếp tục hoàn thành tốt hơn những nhiệm vụ được giao trong những năm học tiếp theo. 
2. lịch sử vấn đề
	Tiếng Việt hình thành và phát triển năng lực chính tả cho học sinh ở trường tiểu học thực hiện trong các hình thức dạy cái đúng và sửa chữa khắc phục cái sai. Học sinh được rèn kĩ năng viết qua các hình thức: Tập chép, nghe – viết, nhớ - viết.
Trường tiểu học Lê Quý Đôn của chúng tôi trong những năm qua đã đầu tư khá nhiều cho việc dạy chính tả cho học sinh như tổ chức các chuyên đề, các cuộc thi viết về đề tài nghiên cứuLà một giáo viên có kinh nghiệm, tôi đã tích cực tham gia với khá nhiều đề xuất, giải pháp cụ thể. Vì thế có thể xem các nội dung được nêu trong đề tài này la kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc của tập thể giáo viên trường tiểu học Lê Quý Đôn nói chung và bản thân tôi nói riêng.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
3.1 đối tượng nghiên cứu
	Đối tượng mag chúng tôi chọn nghiên cứu là lỗi chính tả của học sinh lớp 1B trường tiểu học Lê Quý Đôn, huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông (năm học 2011- 2012)
3.2 Nhiệm vụ
	Đề tài này thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu:
- Phát hiện và chỉ ra những lỗi mang tính phổ biến của học sinh (thuộc địa phương giảng dạy), tìm ra nguyên nhân của những lỗi đó. 
 - Nêu một số hướng khắc phục đã và đang áp dụng trong việc giảng dạy và bước đầu có hiệu quả, đồng thời đưa ra các đề xuất.
3.3 phương pháp nghiên cứu
	Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, Tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp thống kê.
	Tôi thống kê tất cả lỗi chính tả của hóc sinh lớp 1B trong các bài chỉnh tả ở học kì II năm học 2011- 2012
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
	Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng để phân tích các lỗi chính tả của học sinh, phân tích nguyên nhân phạm lỗi.
- Phương pháp so sánh.
	Phương pháp này dùng để so sánh các loại lỗi, tình hình phạm lỗi của học sinh,
	Kết quả thống kê, phân loại sẽ được trình bày tổ hợp ở bảng thống kê.
Nội dung
1. Giới thiệu về trường tiểu học Lê Quý Đôn
	Như chúng ta đã biết, nước ta là một quốc gia nhiều dân tộc, với 54 dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc lại có ngôn ngữ riêng được dùng để giao tiếp với các thành viên trong cộng đồng với nhau. Bên cạnh đó ở từng vùng, miền lại có những phương ngữ với cách phát âm khác nhau. Và chính những thay đổi về phát âm đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh trong quá trình học tiếng Việt và rèn luyện chính tả. Vì lẽ đó qua khảo sát chúng ta sẽ thấy được bên cạnh những lỗi viết mang tính cá biệt còn có những lỗi sai khá phổ biến mà chủ yếu do ảnh hưởng từ phát âm.
	Những điều phán ánh đó là thực trạng chung của học sinh cả nước nói chung và cũng là của học sinh địa phương chúng tôi dạy nói riêng. Hơn nữa, như tôi đã trình bày ở phần đối tượng nghiên cứu, Đăk Nông là mảnh đất quy tụ nhiều đồng bào anh em ở nhiều vùng miền trong cả nước về đây sinh sống. Nên sự ảnh hưởng của ngôn ngữ của từng dân tộc và phương ngữ của từng địa phương lại càng sâu sắc. Huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông ngoài đồng bào người Êđê là dân tộc tại chỗ, còn có dân tộc Tày, Nùng, Mường, Tháisinh sống. Còn dân tộc kinh thì từ Bắc chí Nam, nhất là người miền Trung. Vì thế tiếng nói dường như có sự pha tạp rất nhiều, và chính những điều đó đã gây nên những trở ngại lớn trong quá trình dạy và học tiếng Việt cho giáo viên và học sinh. Qua quá trình giảng dạy và tích lũy kinh nghiệm tôi rút ra được những trở ngại như sau:
- Thứ nhất: Sự ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương quá lớn trong một lớp học, đưa đến nhiều lỗi sai khác nhau khi học sinh viết chính tả.
- Thứ hai: Học sinh dân tộc Êđê học tiếng Việt khó khăn hơn rất nhiều so với học sinh các dân tộc khác (từ phát âm, diễn đạt, đến chữ viết,). Nguyên nhân một phần do ở gia đình hầu như người Êđê không dùng ngôn ngữ toàn dân mà họ giao tiếp bằng thứ tiếng của dân tộc mình. Học sinh chỉ học tiếng Việt ở trên trường học hoặc giao tiếp ngoài xã hội. Vì thế việc các em đọc không có thanh điệu, viết không có dấu là chuyện bình thường và rất khó sửa.
- Thứ ba: Giáo viên cũng đến đây từ nhiều miền quê khác nhau, ngay từ giọng nói giữa thầy và trò cũng có những khoảng cách nhất định, có khi giáo viên giảng mà học sinh vẫn không nghe. Mặc dù mỗi giáo viên đều cố gắng khắc phục, hạn chế âm sắc địa phương (nhất là tiếng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định) nhưng khó đạt đến trình độ chuẩn mực. Điều này cũng là một trở ngại rất lớn tác động vào chất lượng viết chính tả của học sinh, nhất là khi đọc – viết.
Tất cả những trở ngại trên đã tác động trực tiếp vào quá trinh viết chính tả của học sinh mà qua khảo sát tôi đã thu được.
2. Số liệu thống kê
Thống kê kết quả kháo sát tôi có số liệu như sau:
Tổng số bài khảo sát: 480 bài.
Số bài phạm lỗi: 424 bài (chiếm tỉ lệ 88,33%)
Số bài không phạm lỗi: 56 bài (chiếm tỉ lệ 11,66 %)
Thống kê theo từng loại cụ thể như sau:
T/T
Tên bài
Tổng số bài
Số bài không bị phạm lỗi
Số bài phạm lỗi
Số tiếng trong bài
Số tiếng bị viết sai
Tần số xuất hiện
1
Trường em
24
1
23
26
4
38
2
Tặng cháu
24
2
22
28
5
41
3
Bàn tay mẹ
24
1
23
35
7
45
4
Cái Bống
24
3
21
28
5
49
5
Nhà bà ngoại
24
2
22
27
5
36
6
Câu đố
24
3
21
16
3
23
7
Ngôi nhà
24
4
20
16
3
17
8
Quà của bố 
24
3
21
20
3
44
9
Hoa sen
24
4
20
28
4
37
10
Mời vào
24
3
21
30
4
45
11
Chuyện ở lớp
24
5
19
20
5
41
12
Mèo con đi học
24
2
22
24
6
36
13
Kể cho bé nghe
24
3
21
20
4
29
14
Hồ Gươm
24
1
23
32
5
43
15
Lũy tre
24
2
22
36
6
54
16
Cây bàng
24
6
18
20
5
41
17
Đi học
24
3
21
36
6
33
18
Bác đưa thư
24
3
21
40
6
44
19
Loài cá thông minh
24
4
20
39
5
29
20
Ò ó o
24
1
21
27
5
32
3. Lỗi chính tả của học sinh 
	Từ thực tế giảng dạy tôi thấy rằng lỗi trong bài viết chính tả của học sinh hết sức phức tạp, trong đó có các lỗi phố biến sau:
- Lỗi do học sinh chưa nắm vững mặt chữ.
- Lỗi do sai quy tắc hiện hành.
- Lỗi do ảnh hưởng của phát âm địa phương.
3.1 Lỗi chính tả do học sinh chưa nắm vững mặt chữ.
	Lỗi này do học sinh chưa hình thành được một cách rõ ràng biểu tượng âm thanh thính giác và chưa nắm vững quy tắc ghép chữ cái âm tiết.Vì các em mới bước vào lớp 1 nên việc học tập viết chính tả là một việc làm vô cùng mới mẻ và bỡ ngỡ. Nên đã dẫn đến việc viết sai chỉnh tả rất nhiều và lỗi các lỗi khác.
3.2 Lỗi do sai quy tắc chính tả hiện hành.
 Lỗi do học sinh viết ẩu, cấu thả, lẫn lộn giữa chữ viết in và chữ viết thường, chữ viết hoa và chữ không viết hoa.
 3.3 Lỗi do ảnh hưởng của phát âm địa phương.
	Như chúng ta đã nói ở trên, tiếng Việt có nhiều phương ngữ, thổ ngữ nên bên 
cạnh tính thống nhất cũng có những nét dị biệt khá rõ ràng trong cách phát âm, 
dùng từ giữa các vùng, miền mà theo như các nhà nghiên cứu đã chia tách nó ra thành ba kiểu: Phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ Trung Bộ, phương ngữ Nam Bộ.
	Như vậy mỗi vùng phương ngữ có những biến thế tiếng Việt khác nhau và đương nhiên nó phần khác so với phát âm chuẩn của ngôn ngữ toàn dân. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến việc viết sai chính tả của học sinh.
	Nguyên nhân dẫn đến lỗi này là do ảnh hưởng của việc “nói sao viết vậy” . Vì giọng nói, cách phát âm của một số địa phương lệch so với hệ thống ngữ âm chuẩn nên cùng một tiếng có nhiều sự phát âm khác nhau như: Nội/ lội; anh/ eng; đạp/ độp
	Ta có thể chia ra các loại viết sai với lần xuất hiện trên tần số và tỉ lệ theo bảng thống kê sau:
Các lỗi sai
Tổng số bài
Tần số xuất hiện
Tỉ lệ
Sai cả tiếng
81
156
17,9%
Sai phụ âm đầu
152
315
31,7%
Sai vần
146
217
30,4%
Sai thanh điệu
40
69
8,33%

a) Lỗi sai cả tiếng
	Nguyên nhân của lỗi sai này là do học sinh không chú ý nghe giáo viên đọc, không nhớ chữ cần viết dẫn đến việc viết theo suy luận hoặc nhớ nhầm.
	Lỗi này rất phố biến đối với học sinh lớp 1 vì các em mới bắt đầu làm quen với môn học này nên mọi cái đang còn bỡ ngỡ, các em chưa hình thành được thói quen và kĩ năng nghe- viết chỉnh tả nên phạm lỗi này rất nhiều.
b) Lỗi sai phụ âm đầu
	Đây là trường hợp sai nhiều nhất mà chủ yếu là do ảnh hưởng của tiếng địa phương, từ phát âm sai chuẩn dẫn đến viết sai phụ âm đầu, trong đó sai nhiều ở các phụ âm: l/ n, tr/ ch, x/ s, gi/ d
	Lỗi này có thể thống kê theo bài như sau:
	Trường em
Trường/ chường, giáo/ dáo.
	Tặng cháu
 Yêu/ iêu, lòng/ nòng
	Bàn tay mẹ
Làm/ nàm, giặt/ dặt.
	Cái Bống
sảy/ xảy, ròng/dòng.
	Nhà bà ngoại
Rộng/ dộng, rãi/ dãi
	Câu đố
 Gì/ dì, suốt/ xuốt
	Ngôi nhà
 Tre/ che
	Quà của bố
 Nghìn/ ngìn
	Hoa sen
Trong/ chong, xanh/sanh, trắng/chắng.
	Mời vào
 Xem/ sem
	Chuyện ở lớp
Trêu/ chêu, nổi/ lổi.
	Mèo con đi học
 Kiếm/ ciếm	
	Kể cho bé nghe
Chăng/ trăng, quay/ cuay
	Hồ Gươm
Lấp/ nấp, rễ/ dễ
	Lũy tre
Sớm/ xớm, rì/ dì
	Cây bàng
Sang/ xang, kẽ/ cé
	Đi học
Trường/ chường,lặng/ nặng, giáo/ dáo.
	Bác đưa thư
Trao/ chao, rồi/ dồi, quýnh/ kính	
	Loài cá thông minh
Dạy/ giạy, sống/xống.
	Òóo
Tre/ che, nảy/ lảy
c) Lỗi về phần vần:
	Học sinh hay viết lẫn lộn giữa vần mang nguyên âm đôi như iê và ê, uô và u, ươ và ư, oa và ao, oe và eo ương và ươn,
 	Hoặc viết sai các vần chứa các cặp phụ âm cuối như: n/ ng/ ngh, t/ c, ch/ nh
thống kê theo bài như sau:
	Trường em
 Hai/ hay, bạn/ bạng, thiết/ thiếc.
	Tặng cháu
Tặng/ tặn, yêu/ iêu, chút/ chúc.
	Bàn tay mẹ
Nhất/ nhấc, hằng/ hàng, biết/ biếc, giặt/ giặc.
	Cái Bống
Bang/ ban, khéo/khóe.
	Nhà bà ngoại
Thoáng/ tháng, khắp/ khắc.
	Câu đố
 Suốt/ suốc, vườn/ vường.
	Ngôi nhà
Ngôi/ ngô, mạc/ mạp.
	Quà của bố
Thương/ thươn, chúc/ chút.
	Mời vào
Tai/ tay, gạc/ gạt.
	Chuyện ở lớp
Vuốt/ vuốc	
Mèo con đi học
Buồn/ buồng
	Ngưỡng cửa
Tiên/tên, tắp/ tắc.
	Kể cho bé nghe
Hay/ hai, quay/ quai.
	Lũy tre
Mặt/ mặc.
	Cây bàng
 Chít/ chíp.
	Đi học
Dắt/ dắc
	Bác đưa thư
Quýnh/ kính	
Chia quà
Phương/ phươn, xin/ xinh.
	Loài cá thông minh
Xiếc/ xiết.
	Òóo
Tiếng/ tiến, hoắt/ hoắc.
d) Lỗi về thanh điệu:
Học sinh ở tiểu học nói chung và đặc biệt là hoc sinh lớp 1, tình trạng lẫn lộn về thanh điệu xảy ra khá nhiều, nhất là thanh ngã và thanh hỏi, thanh sắc và thanh huyền. Lỗi này chủ yếu do cách phát âm của một số vùng miền có thanh hỏi, thanh ngã hoặc thanh sắc , thanh huyền tương đối gần nhau, khó phân biệt, từ đó dẫn đến việc viết sai về thanh điệu nhiều.
Lỗi này có thể thống kê theo bài như sau:
	Trường em
Giáo/ giảo.
	Nhà bà ngoại
Rãi/ rái, thoáng/ thoảng
	Hoa sen
Trắng/trẳng.	
	Mèo con đi học
Kiếm/ kiểm, chữa/ chứa..
	Ngưỡng cửa
Đã/ đá
	Kể cho bé nghe
 ĩ/í 
	Hồ Gươm
Dẫn/ dấn, rễ/ rế.	
	Cây bàng
 Kẽ/ ké.
	Bác đưa thư
 Nhễ/ nhế.
	Loài cá thông minh
 Dẫn/dấn
4. Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
	Từ sự phân tích trên chúng ta có thể tổng hợp lại các nguyên nhân phạm lỗi của học sinh như sau:
- Thứ nhất: Phát âm sai so với chuẩn của ngôn ngữ toàn dân đưa đến việc sai lỗi chính tả do “nói sao viết vậy”
- Thứ hai: Học sinh chưa nắm vững hoặc quên một số quy tắc chính tả hiện hành (lẫn lộn chữ viết in và chũ viết thường, giữa các phụ âm, giữa các vần mang nguyên âm đôi,)
- Thứ ba: Do một số học sinh có thói quen cấu thả, không chú tâm đến bài viết.
- Thứ tư: do giọng đọc của một số giáo viên chưa chuẩn ,ảnh hưởng của tiếng địa phương nên dẫn đến học sinh nghe không rõ, nhầm lẫn, nhất là giữa các thanh điệu.
	Với bốn nguyên nhân chủ yếu trên, theo tôi nguyên nhân thứ ba là dễ khắc phục hơn cả bởi nó phụ thuộc vào ý thức học tập của học sinh. Do đặc trưng lứa tuổi, tâm lý ở đối tượng học sinh này nếu được giáo viên chú trọng hướng dẫn, rèn cho các em có được thói quen tốt, cẩn thận, tập trung trong quá trình học tập thì sẽ thành công. 
	Ba nguyên nhân còn lại đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài, thường xuyên, liên tục và phải đươc thực hiện ngay từ những bài đầu của lớp 1.
	Bởi thế, tôi xin đề xuất một số biện pháp khắc phục như sau:
	Một là: Giáo viên cần luyện đọc, phát âm theo đúng chuẩn.
	Với học sinh lớp 1, thầy cô là: “khuôn vàng thước ngọc”. Trong thực tế, ta thấy sự ảnh hưởng của giáo viên đến từng học sinh là rất lớn, các em học và bắt chước từ cử chỉ đến lời ăn tiếng nói. Vì thế, để rèn học sinh viết đẹp, viết đúng không có cách nào khác là mỗi giáo viên phải tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ. Yếu tố đầu tiên cần quan tâm đó là đọc rõ ràng, phát âm chuẩn, hạn chế sự ảnh hưởng của âm sắc địa phương. Nhờ đó sẽ phần nào giảm bớt sai sót về phụ âm, thanh điệu giúp cho học sinh có giọng đọc đúng.
	Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng: Đây là việc làm không dễ thực hiện, nó đòi hỏi phải có sự kiên trì, nhất là với những giáo viên đã lớn tuổi thì càng khó khăn hơn. 
 	Hai là: Cần chú ý nhắc nhở học sinh phân biệt chữ viết thường và chữ viết hoa. Cụ thể hướng dẫn một số quy tắc sau:
- Viết hoa ở chữ cái đầu đoạn, sau dấu chấm, dấu chấm than, dấu hỏi chấm.
- Viết hoa tên riêng: Tên người, tên địa danh (đất nước, tỉnh, thành phố, núi, sông,)
Ba là: Hạn chế lỗi viết sai phụ âm đầu: 
	Khi dạy chính tả, giáo viên cần chú ý sử dụng các phương pháp dạy học chính tả so sánh, phân tích kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức, giúp học sinh rút ra cái đúng, cái sai trên cơ sở hiểu ý nghĩa của các từ để khắc phục tình trạng viết sai phụ âm đầu. Trong đó chú ý khắc phục tình trạng lẫn lộn giữa các cặp phụ âm như: l/ n, ch/ tr, s/ x, r/ d,
Ví dụ: Phân biệt ch/ tr giáo viên đưa ra những nhận xét để học sinh dễ nhớ: Số tiếng bắt đầu bằng “ch” chỉ tên các vật dụng trong nhà như: chăn, chiếu, chảo, chậu, chén,, các tiếng bắt đầu bằng “tr” như tranh, tráp
	Qua ví dụ ta thấy: Đây là một ảnh hưởng không nhỏ đến việc viết chỉnh tả của học sinh. Vì vậy cần coi trọng luyện đọc, luyện phát âm, hướng dẫn học sinh đọc đúng thì viết mới đúng. Thế nhưng, ta cũng có thể hình dung làm được điều này không dễ. Bới vì khi bắt đầu tập nói, một số học sinh đã chịu ảnh hưởng một số âm sắc của địa phương qua cách nói năng giao tiếp, qua sự hướng dẫn của những người thân trong gia đình. Từ đó hình thành nên thói quen trong giao tiếp và khi đã trở thành thói quen rồi thì việc sửa chữa, uốn nắn trở nên khó khăn hơn. Đó là chưa kể đến một số học sinh do có giọng nói khác với các bạn bè trong lớp, bị trêu chọc trở nên mặc cảm, rụt rè ít giao tiếp, không giảm phát biểu, ngại nói, ngại đọc,cũng từ đó giáo viên ít gọi đọc bài, ít cho tham gia phát biểu và cơ hội sửa chữa lỗi phát âm lại càng ít hơn. Để khắc phục điều này, khi trong lớp có học sinh như vậy chúng ta cần dành cho các em sự quan tâm riêng, tăng cường cho các em cơ cơ hội nói năng, hoạt động trước tập thể để uốn nắn, sửa chữa dần. Đồng thời ta cũng phải chú ý hướng dẫn học sinh trong lớp biết giữ phép lịch sự, tôn trọng bạn mình, không nhịa theo giọng nói của bạn. Ở một số tiếng hay bị sai trong phát âm nên cho học sinh luyện đi luyện lại nhiều lần và có sự so sánh với những tiếng có liên quan, nói- đọc gần giống nhau để biệt phân biệt, rút ra quy tắc.
5. Một số kiến nghị.
	Từ việc điều tra, đánh giá các lỗi chính tả của học sinh ở lớp 1B và dựa vào mục đích, yêu cầu nội dung phương pháp dạy học chính tả cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng tôi xin phép nêu ra một số kiến nghị sau:
a) Đối với giáo viên dạy lớp 1: Trước hết cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp khi hướng dẫn học sinh viết chính tả:
- Đối với loại bài chính tả tập chép nên cho học sinh luyện đọc nhiều lần để các em nhớ từ, câu để viết đúng, tránh phải nhìn từng chữ, từng nét để viết.
- Với bài chính tả nghe viết: Giáo viên cần đọc rõ ràng, phát âm chính xác tốc độ vừa phải theo yêu cầu của bộ giáo dục (20 chữ/15 phút). Muốn đọc đúng theo tốc độ này giáo viên cần phải luyện thử trước qua việc kết hợp luyện đọc và viết. Từ đó cũng phát hiện ra những chữ học sinh hay viết sai, viết nhầm để lưu ý các em viết đúng.
- Cần vận dụng tích hợp các biện pháp và phương pháp dạy chính tả như: Thường xuyên ôn lại về cấu tạo âm tiết, các phụ âm, vần đã học để giúp học sinh viết đúng chính tả. Với học sinh yếu kém, cần thường xuyên theo dõi, động viên giúp các em viết từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Nếu cần thiết, giáo viên có thể cho những học sinh này xem lại bài chỉnh tả trước khi viết để các em ghi nhớ. Cùng với việc rèn luyện ta cần củng cố, tạo sự tự tin, niềm hứng thú cho các em, tránh sự mặc cảm, chán nản; khuyến khích, khen ngợi kịp thời khi các em co biểu hiện tiến bộ.
- Để giúp học sinh viết tốt hơn ta nên chọn một số đoạn văn, đoạn thơ mà trong đó có những chữ viết sai cho các em phát hiện lỗi theo hướng loại bỏ cái sai, tìm cái đúng.
- Nắm bắt được tâm lý của học sinh lớp 1 là thích được “học mà chơi”. Ngoài ra ta còn có thể lồng ghép việc rèn viết chính tả cho học sinh qua các cuộc thi, các trò chơi nhỏ như: Chọn từ thích hợp để điền vào chỗ trống, tìm phụ âm,vần

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_loi_chinh_ta_cua_hoc_sinh_lop_1b_truon.doc