Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn nền nếp học tập cho học sinh Lớp 1

doc 21 trang Mịch Hương 31/10/2025 580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn nền nếp học tập cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn nền nếp học tập cho học sinh Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để rèn nền nếp học tập cho học sinh Lớp 1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo cuốn Trẻ em Việt Nam - Hồ Chí Minh, 1942 đã từng viết: “Con trẻ là cái mầm, cái búp của cả dân tộc. Con trẻ có được nuôi dưỡng, giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới có thể tự cường, tự lập.” Vì vậy, giáo dục luôn được quan tâm, đặc biệt vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em rất được coi trọng. Đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn bởi trẻ em là tương lai của đất nước, việc đầu tư cho giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu.
Lần đầu tiên cắp sách đến trường với bao bỡ ngỡ, chắc chắn rằng cả cha mẹ, thầy cô cũng như chính bản thân mình, các em đều rất mong mình học được nhiều, biết được nhiều, bởi vì: 
“Cái tháp cao nào cũng xây từ mặt đất”
Dù người lớn chúng ta mong mỏi ở trẻ những điều hết sức sơ đẳng:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”
 Nhưng những cái “biết” ấy luôn phải nằm trong khuôn khổ được xã hội cho phép. Tất cả chúng ta không ai có thể tự ý đi ra ngoài những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống, trẻ em lại càng không thể.
Năm học 2019 - 2020, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 1. Xuất phát từ đặc điểm tình hình lớp nói riêng: lớp học đa số học sinh đã qua mẫu giáo, song các em chưa quen với nền nếp của lớp 1; ý thức tự giác chưa cao; một số gia đình chưa thực sự quan tâm dẫn đến các em chưa xây dựng - chưa xác định được cho mình một hướng đi đúng trong học tập và kỉ luật, còn rất tự do.
 Bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 1, tôi nhận thấy đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, là nền tảng, là tiền đề cho tất cả các cấp học. Nếu các em được học tập và rèn luyện theo một nền nếp thì sẽ là cơ sở tốt cho việc học tập và rèn luyện ở các lớp trên và các cấp học khác. Nhưng thực tế không được như vậy, bởi không phải học sinh lớp 1 nào cũng có một nền nếp học tập tốt. Các em mới từ mẫu giáo lên, làm quen với một môi trường hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ. Tất cả đều bỡ ngỡ. Các em xem cô như người mẹ thứ hai, tất cả mọi cử chỉ, hành vi giao tiếp của học sinh lớp 1, hơn bao giờ hết, rất cần giáo viên uốn nắn theo chuẩn mực.
 Biết bao câu hỏi cứ quanh quẩn trong tôi: phải làm sao để ngay từ đầu, các em được rèn nền nếp trong học tập một cách nghiêm túc và có hiệu quả để tạo tiền đề, để làm cơ sở vững chắc cho cả một quá trình học tập lâu dài sau này?
 Chính vì vậy, với mong muốn nâng cao nền nếp học tập của lớp chủ nhiệm nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung, tôi đã tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu: “Một số biện pháp để rèn nền nếp học tập cho học sinh lớp 1”.
 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết, mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cở sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ, các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng nhân cách, trách nhiệm công dân.
     Như vậy, trường học là nơi trẻ em được hình thành và phát triển nhân cách toàn diện nhất. Ở trường, các em được đón nhận sự quan tâm, dạy bảo của thầy cô giáo, sự giúp đỡ của bạn bè và được sống trong tập thể lớp, các em có điều kiện phát triển trí tuệ và năng khiếu của bản thân. Đến trường các em không chỉ được học các môn học mà còn được rèn luyện, được tham gia nhiều hoạt động tập thể phù hợp với lứa tuổi, vui và bổ ích. Có thể nói, trường học là vườn ươm cho những tài năng tương lai của đất nước. Muốn nâng cao chất lượng toàn diện ở trường tiểu học thì mọi kỉ cương, nền nếp phải chặt chẽ, nghiêm túc. Các hoạt động trong nhà trường phải đồng bộ, tạo nên bộ máy nhịp nhàng, đều tay, tạo những phong trào thi đua trong nhà trường thực sự có hiệu quả và chất lượng cao.
Với đối tượng là học sinh, nhất là học sinh lớp 1- lớp đầu cấp bậc tiểu học, các em còn nhỏ, rất hiếu động, mải chơi, chưa chú tâm vào việc học thì việc thực hiện đúng nền nếp học tập là điều khó khăn. Do đó, nếu ngay từ lớp 1 học sinh được rèn nền nếp trong học tập một cách nghiêm túc và có hiệu quả thì ở các lớp sau, các em cũng sẽ là những học sinh có nền nếp học tập tốt, tạo bước đi vững chắc cho các em trong việc học tập ở các lớp trên và tạo tiền đề cho việc rèn luyện, phấn đấu thành người công dân có ích cho đất nước sau này. Kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy, nếu giáo viên làm tốt công tác xây dựng và rèn luyện ý thức tự giác tích cực, có ý thức tự quản tốt sẽ có tác dụng rất lớn cho việc thực hiện các chỉ tiêu giáo dục, góp phần phát triển toàn diện cho học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề
 Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tôi rút ra được một số thuận lợi và khó khăn sau đây:
a. Thuận lợi:
 Nhà trường nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, của địa phương trong công tác giáo dục.
Ban giám hiệu nhà trường có năng lực quản lý tốt, năng động, vững vàng chuyên môn và nhiệt tình giúp đỡ giáo viên. Các tổ chức đoàn thể trong nhà trường luôn tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ các giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Cơ sở vật chất trong các phòng học được quan tâm đầu tư khá đầy đủ, đặc biệt là các phương tiện hiện đại như: máy tính, máy chiếu. Lớp học đảm bảo về ánh sáng, bàn ghế quy chuẩn, sạch sẽ, thân thiện.
Phụ huynh quan tâm mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh; phối kết hợp với giáo viên, với nhà trường trong các hoạt động giáo dục: làm đồ dùng dạy học, trang trí lớp học, tham gia các hoạt động trải nghiệm, .
Đa số các em học sinh ngoan, có ý thức trong học tập và rèn luyện.
b. Khó khăn:
 Một bộ phận phụ huynh do bận công việc hoặc đi làm ăn xa, con ở nhà với ông bà nên ít có thời gian quan tâm đến việc học tập của con em mình. Một số phụ huynh ngại tham gia các hoạt động cùng con, ít dành thời gian để chia sẻ với con nên chưa biết cách hỗ trợ con trong hoạt động và trong học tập. 
Bản thân giáo viên cũng còn gặp không ít những khó khăn và hạn chế khi rèn nền nếp do chưa thực sự thoát khỏi suy nghĩ : học sinh làm gì cũng cần phải có sự hướng dẫn điều hành của giáo viên hoặc học sinh nhỏ nên chưa thể tự quản, tự chủ được;... Mặt khác, trong thực tế, giáo viên vẫn còn thiếu kinh nghiệm hoặc chưa linh hoạt và chưa thực sự kiên trì, đôi lúc hơi nóng vội dẫn đến việc rèn nền nếp tự quản cho học sinh chưa mang lại hiệu quả như mong đợi.
 Các em mới bắt đầu vào lớp 1 nên còn bỡ ngỡ nhiều trong công việc học tập, chưa có ý thức cao trong việc thực hiện nền nếp, tổ chức, kỷ luật. 
 Khi bắt đầu cắp sách đến trường, hầu hết các em đều chưa có ý thức về nền nếp trong học tập. Mọi môn học đối với các em là hoàn toàn mới mẻ, khác hẳn với ở lớp mẫu giáo, gây nhiều lúng túng cho các em trong mỗi giờ học.
c. Thực trạng của lớp học:
Một số em khó khăn trong việc viết bài, đọc bài, một số em còn ham chơi, chưa thấy việc học tập là quan trọng cho bản thân. Một số học sinh yếu thiếu sự cố gắng trong học tập, tiếp thu bài còn quá chậm. Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình hết sức đặc biệt, cần được sự quan tâm của các thầy cô và bạn bè. 
Một số học sinh sức khoẻ yếu hoặc có những biểu hiện tăng động giảm chú ý, gây ảnh hưởng đến kết quả học tập và rèn luyện của chính bản thân học sinh đó, đồng thời cũng tác động không nhỏ tới hoạt động chung của lớp. 
 Trên thực tế khi đi học rất nhiều em còn thiếu sách vở đồ dùng: giờ toán quên vở bài tập; giờ học vần, tập đọc quên sách Tiếng Việt; giờ viết không có bút... Cá biệt có em không mang cả cặp sách vì sáng ra dậy muộn, gia đình quên nhắc nhở... Vì vậy, các em không tham gia hoạt động học tập cùng các bạn trong lớp, làm ảnh hưởng đến không khí học tập của cả lớp.
Học sinh không tập trung học, không ngồi yên một chỗ trong một giờ học mà làm việc riêng hoặc quay sang bạn nói chuyện. Đặc biệt năm học này, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1A đa số các em là học sinh nam rất hiếu động, kém tập trung.
 Kết quả khảo sát đầu năm cho thấy:
STT
Việc thực hiện nền nếp
Tổng số HS
Thực hiện tốt
Thực hiện chưa tốt
TS
%
TS
%
1
Nội quy lớp học
29
11
37,9
18
62,1
2
Tham gia hoạt động NGLL
29
9
31
20
69
3
Giữ gìn vệ sinh
29
13
44,8
16
55,2
4
Một số nền nếp khác
29
13
44,8
16
55,2
Tháng 9 năm 2019 
 Từ thực trạng học sinh nêu trên tôi đã thực hiện nghiên cứu một số giải pháp hiệu quả giúp học sinh của tôi có nền nếp học tốt.
3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề:
Trước những thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn xây dựng một số giải pháp sau với mong muốn rèn nền nếp học tập cho học sinh lớp 1. Cụ thể:
Giải pháp thứ nhất: Xây dựng và rèn nền nếp thực hiện nội quy cho học sinh.
Bảng nội quy lớp học:
Trong những tuần học đầu tiên, giáo viên chủ nhiệm phải tổ chức cho học sinh học nội quy lớp học thật chi tiết, tỉ mỉ, phân tích kỹ để các em hiểu đó là những việc em nên làm. Bảng nội quy lớp học được trang trí trên tường lớp học, nơi tất cả học sinh trong lớp dễ nhìn nhất. 
Đối với nền nếp đi học chuyên cần, đúng giờ:
 Một số học sinh lớp 1, những ngày đầu thường sợ cô giáo, có em khi bố mẹ về chỉ ngồi khóc. Vì thế, ngay từ buổi đầu tiên đón các em vào lớp, tôi vui vẻ, nhẹ nhàng, niềm nở, gần gũi với các em, tạo cho các em tâm lý thoải mái, vui vẻ, thích được đến lớp. Tôi luôn đến lớp sớm để nói chuyện với các em, nhẹ nhàng bảo ban các em từng li, từng tí nên chỉ sau mấy ngày tất cả các em đều muốn đến lớp với cô giáo và các bạn. 
 Ngay những ngày đầu năm học, một số em rất ngại đến lớp và cũng hay đi học muộn, tôi đã theo dõi sát sao, học sinh nào đến lớp muộn tôi gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi tìm hiểu rõ nguyên nhân. Ngày hôm sau trước khi đến trường tôi gọi điện nhắc phụ huynh đưa con đi học. Vì vậy, chỉ sau một tuần là cả phụ huynh và học sinh rèn được thói quen đến trường đúng giờ. Còn các học sinh nghỉ học, tôi đến tận nhà để nắm bắt thực tế: nếu học sinh bị ốm thì động viên thăm hỏi kịp thời, nếu học sinh nghỉ ở nhà để ăn cỗ (đám cưới, đám giỗ,) thì kiên quyết góp ý với phụ huynh tuyệt đối không cho học sinh nghỉ học tùy tiện, như vậy sẽ ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
Đối với nền nếp xếp hàng và ra vào lớp:
 Ở trường Mầm non, các em chưa quen với tiếng trống nên ngay từ đầu tôi cho các em làm quen với hiệu lệnh trống thông qua trò chơi “Ai nhanh, ai đúng” thật vui vẻ mà hiệu quả. Những lần xếp hàng đầu tiên, giáo viên trực tiếp điều hành chỉ dẫn các em, sau đó mỗi tổ giao cho một học sinh điều hành, giáo viên quan sát, uốn nắn. Sau một thời gian ngắn, nghe hiệu lệnh trống các em xếp hàng rất nhanh, thẳng, đặc biệt khi ra về, cha mẹ có vào trong sân đón các em cũng không bước ra khỏi hàng mà đi theo hàng ra tới cổng. 
Tôi chia mỗi tổ xếp thành một hàng rồi quy định vị trí đứng cho từng học sinh và yêu cầu các em nhớ tên bạn đứng trước, đứng sau và đứng ngang hàng với mình.
Giải pháp thứ hai: Xây dựng nền nếp học tập.
a. Xây dựng cho học sinh tư thế ngồi học chuẩn:
 Rèn cho học sinh tư thế ngồi học chuẩn nhằm giúp học sinh hình thành thói quen tốt trong khi ngồi học, giúp thể chất của các em phát triển lành mạnh không bị cong vẹo cột sống, không ảnh hưởng đến mắt như bị cận thị,Vậy bản thân tôi luôn chú ý nhắc nhở học sinh khi ngồi học cần chú ý những điểm sau:
- Tư thế ngồi viết:
+ Lưng thẳng;
+ Không tì ngực vào bàn;
+ Đầu hơi cúi;
+ Mắt cách vở khoảng 25 – 30cm;
+ Tay phải cầm bút;
+ Tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ;
+ Hai chân để song song, thoải mái.
- Cách cầm bút:
+ Cầm bút bằng ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa;
+ Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái.
b. Xây dựng nền nếp chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập:
Các em còn nhỏ chưa thực sự có ý thức trong việc giữ gìn, chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập mà giáo viên phải tỉ mỉ, chịu khó nhắc nhở, hướng dẫn các em cách bảo quản, giữ gìn cho được bền lâu như: dùng xong phải cất gọn để vào giỏ đồ dùng của mình. 
Bước vào học lớp 1, các em chưa viết được nên đầu năm học tôi phát cho các em một thời khoá biểu, hướng dẫn các em mang về dán ở góc học của mình. Hàng ngày các em nhờ ông, bà, bố, mẹ giúp đỡ trong việc chuẩn bị đồ dùng, sách vở để mang đến lớp. Tại lớp, trong từng môn học tôi hướng dẫn các em quan sát kĩ về sách vở để các em có thể nhận biết các loại sách vở qua bìa của sách và nội dung bài học của từng ngày. Ví dụ: 
+ Sách Tiếng Việt có hình ảnh hai bạn học sinh đi đến trường.
+ Sách Toán có bìa màu xanh, có hình ảnh 3 bạn học sinh và có các số.
+ Sách Tự nhiên và xã hội có hình bông hoa hồng, có các bạn và cô giáo.
Về đồ dùng học tập, tôi yêu cầu mỗi em có: hai bút chì đã gọt đầu, tẩy, thước kẻ, bộ thực hành Toán, bảng con, phấn, giẻ lau, hộp màu, giấy màu,... Hàng ngày, tôi nhắc học sinh chuẩn bị đồ dùng theo thời khóa biểu dưới sự hướng dẫn của phụ huynh. 
Tất nhiên trong lớp có em thực hiện tốt, có em thực hiện chưa tốt. Tổ nào, cá nhân học sinh nào thực hiện tốt sẽ được khen, biểu dương có phần thưởng. Còn em nào chưa tốt hay quên hoặc thiếu đồ dùng hoặc sách vở thì giáo viên nhẹ nhàng nhắc nhở, động viên các em; nếu có em quên nhiều lần giáo viên phải kết hợp cùng phụ huynh học sinh để rèn cho các em thành nền nếp. 
Việc học sinh chuẩn bị đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập trước khi đến lớp cũng là yếu tố quan trọng mang đến hiệu quả tiết dạy. Các em sẽ tập trung luôn vào bài, tiết học rất nhẹ nhàng và đảm bảo đủ thời gian cho các hoạt động. 
c. Xây dựng nền nếp học tập trên lớp: 
 Học sinh còn lúng túng trong việc sử dụng sách vở, đồ dùng học tập của từng môn học: Trên lớp, tôi hướng dẫn các em cách lấy sách vở trong ngăn bàn nhanh, không gây tiếng động và thực hiện theo các ký hiệu đã quy định. Ví dụ: Khi giáo viên dùng thước chỉ B: học sinh lấy bảng; chỉ S: lấy sách giáo khoa; chỉ V: lấy vở  Như vậy, học sinh nào đã sắp xếp sách vở đồ dùng một cách khoa học thì lấy rất nhanh, tôi cho các em thi đua xem em nào, tổ nào làm nhanh, làm đúng. Yêu cầu thực hiện nhiều lần, các em sẽ nhớ và trở thành nếp, khi cô nói và viết tên môn học trên bảng thì là lúc các em lấy sách vở của môn đó ra, giữa giáo viên và học sinh có sự kết hợp nhịp nhàng. 
Học sinh lúng túng trong việc lấy được sách rồi nhưng lại loay hoay với việc tìm bài học, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh cách mở sách giáo khoa. Để giúp các em mở sách, mở vở đúng nội dung bài học, tôi đã hướng dẫn các em kẹp đánh dấu vào trang bài vừa học rồi gập sách lại, đến khi giáo viên yêu cầu, chỉ mở sách theo kẹp dấu là đến luôn bài sau để học không cần mất nhiều thời gian. 
Học sinh lúng túng khi giơ tay phát biểu ý kiến: Để giúp các em có nền nếp đưa tay phát biểu tôi hướng dẫn các em ngồi tư thế thẳng, chống khuỷu tay phải xuống bàn, tay phải giơ thẳng, bàn tay khép lại, khi giáo viên gọi mới đứng dậy trả lời, không được nói leo gây ồn ào trong giờ học. Kết quả học sinh đã nhanh chóng có thói quen ngồi học ngay ngắn , tập trung chú ý nghe thầy cô giảng, chú ý lời bạn phát biểu và khi phát biểu nói to, rõ ràng.
 Học sinh lúng túng không biết cách giơ bảng con. Thời gian đầu, nhiều học sinh khi chưa có hiệu lệnh của giáo viên các em đã đưa lên, giáo viên chưa kiểm tra xong có em đã để xuống. Để học sinh cả lớp có nền nếp giơ bảng con tôi đã hình thành cho các em thói quen: viết xong úp bảng con xuống, khi giáo viên gõ thước 1 tiếng học sinh cầm bảng con bằng hai tay đưa bảng con lên, gõ thước 1 tiếng nữa học sinh để bảng con xuống bàn để đối chiếu kết quả, gõ 2 tiếng thước là học sinh xóa bảng.
Ngoài ra, học sinh được rèn nhiều các kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết trong tất cả các môn học. Tất cả các kĩ năng đó được rèn luyện thường xuyên sẽ trở thành thói quen, thành nền nếp trong học tập. Ví dụ: Trong giờ học Tiếng Việt, khi nào phát âm, phân tích, khi nào đọc trơn, hay luyện đọc theo các mức độ giáo viên đều phải quy định hiệu lệnh để học sinh thực hiện. Khi yêu cầu đọc phân tích vần hoặc phân tích tiếng, giáo viên đặt thước nằm ngang dưới vần hay tiếng cần phân tích. Khi yêu cầu đọc trơn, giáo viên dùng thước chỉ dưới tiếng hay từ cần đọc. Khi yêu cầu đọc theo các mức độ, giáo viên chỉ vào ký hiệu đã quy định ghi trên bảng. Khi học sinh luyện đọc theo nhóm, theo dãy, giáo viên chỉ cần gọi em đầu tiên của dãy hoặc của nhóm đọc, sau đó giáo viên không cần gọi, các em sau sẽ tiếp nối nhau đọc.
Với các môn học khác, để học sinh có điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ nhau trong học tập, trong các tiết học, tôi thường tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm (có thể là nhóm đôi, nhóm 4). Giáo viên theo dõi hoạt động của nhóm, đảm bảo sao cho lần lượt học sinh được thay phiên nhau làm nhóm trưởng và trình bày kết quả thảo luận trước lớp. Qua cách làm việc theo nhóm, học sinh được phát triển những kỹ năng hợp tác, từ đó các em rất thích học nhóm.
Ngoài ra, giáo viên còn phải tổ chức cho các em vui chơi trong quá trình học tập, luôn khuyến khích học sinh tự suy nghĩ và đưa ra ý kiến cá nhân của mình, nếu sai giáo viên nhẹ nhàng sửa chữa. Trên lớp, giáo viên cần chú trọng việc biểu dương những tiến bộ dù nhỏ của học sinh để các em thấy rằng sự tiến bộ của mình được cô giáo ghi nhận để các em nỗ lực và tự tin hơn trong học tập.
Ở trong lớp tôi có nhiều đối tượng học sinh, ngoài những học sinh khá, giỏi còn có những học sinh học lực trung bình và yếu. Vậy làm thế nào để tất cả các em học sinh phấn đấu vươn lên trong học tập? Qua kinh nghiệm của bản thân, tôi đã thực hiện một số biện pháp như phân công các bạn khá giỏi kèm cặp các bạn yếu kém, xây dựng các mô hình học tập như “Đôi bạn điểm tốt”, “Đôi bạn cùng tiến”, nhóm học tập ở trong lớp và tổ chức cho các nhóm thi đua với nhau. 
Bên cạnh đó, tôi đã lập bảng“Vườn hoa điểm tốt” treo trong lớp học - đây là nơi động viên, khuyến khích sự tiến bộ của các em (mỗi ngày đạt một điểm tốt sẽ được cô giáo tặng và cắm một bông hoa vào vị trí tên mình). Cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm cùng với học sinh cả lớp tổ chức kiểm tra từng tổ, ai được nhiều hoa điểm tốt bạn đó sẽ được gắn tên vào vị trí được chúc mừng và được biểu dương trước lớp. Từ khi có “Vườn hoa điểm tốt”, tôi thấy các em cố gắng hơn, tích cực hơn, thi đua nhau giành được nhiều hoa điểm tốt và thấy phấn khởi vì thành tích học tập của mình đã được tập thể lớp và cô giáo ghi nhận hàng ngày, hàng tuần. Đây cũng là một nền nếp rất hiệu quả trong học tập của học sinh lớp tôi. Chính vì vậy, tôi thấy rằng: để dạy một tiết học đủ thời gian 35 phút có chất lượng và đảm bảo được không khí học tập của lớp thì phải đưa các em vào nền nếp học tập ngay từ đầu năm học.    
d. Xây dựng nền nếp học tập ở nhà: 
Học sinh có ý thức tự học, ôn lại bài học ở nhà và chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập rất cần thiết cho việc xây dựng nền nếp học tập ở các em. Hiện nay, học sinh đều được học 2 buổi/ ngày nên toàn bộ bài học đã được giáo viên hướng dẫn và học sinh hoàn thành ngay trên lớp nhưng vẫn cần rèn cho các em có nền nếp buổi tối học tập ở nhà. Cuối mỗi buổi học trên lớp, giáo viên giao bài về nhà, cụ thể là yêu cầu học sinh đọc lại phần bài vừa học, sau đó các em sẽ phải chuẩn bị sách vở của bài học ngày hôm sau. Những công việc này, ngay từ đầu, giáo viên kết hợp với phụ huynh yêu cầu học sinh thực hiện một cách cụ thể và đều đặn để học sinh rèn thành một thói quen tốt. Sang đến học kì II, các em có thể tự giác ngồi vào bàn học để đọc lại bài và chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập cho ngày hôm sau mà không cần ông, bà, bố, mẹ phải nhắc nhở nữa. 
e. Xây dựng nền nếp giữ vở sạch, viết chữ đẹp:
 Ông cha ta thường nói: “Nét chữ nết người”. Đúng vậy, khi người ta nhìn vào nét chữ thì đánh giá được con người. Nếu nét chữ đẹp thì con người đó có tính cẩn thận và ngược lại nét chữ xấu thì con người đó luôn cẩu thả. Vì vậy, tôi thường xuyên xây dựng kế hoạch giữ vở sạch, rèn chữ viết cho học sinh mọi lúc, mọi nơi như: viết đúng, viết đẹp, giữ gìn vở không quăn mép; không viết, vẽ bậy vào vở. Bên cạnh đó, ở tường lớp tôi luôn có góc treo mẫu chữ viết để các em quan sát viết đúng mẫu chữ và các bài viết đẹp của học sinh để cả lớp noi theo.
Giải pháp thứ ba: Xây dựng nền nếp tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Học sinh lớp 1 là lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên, sống bằng tình cảm cho nên các hoạt động ngoài giờ lên lớp rất cần thiết và quan trọng nhằm giúp các em l

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_de_ren_nen_nep_hoc_ta.doc