Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc

ỦY BAN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ TRƯỜNG THCS VIỆT THỐNG BÁO CÁO BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP TÊN BIỆN PHÁP: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG LỚP HỌC HẠNH PHÚC” Tác giả: Trần Thị Oanh Môn giảng dạy: Ngữ Văn Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Việt Thống Quế Võ, ngày 01 tháng 11 năm 2023 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Quy ước Nội dung 1 THCS Trung học cơ sở 2 GV Giáo viên 3 HS Học sinh 4 GVBM Giáo viên bộ môn 5 GVCN Giáo viên chủ nhiệm 6 BGH Ban giám hiệu 7 PHHS Phụ huynh học sinh PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống hiếu học. Từ xưa đến nay, cha ông ta luôn coi việc học như quốc kế sinh tồn, hưng thịnh. Bởi hiền tài chính là “nguyên khí” của quốc gia. Thời phong kiến, “Quân - Sư - Phụ” là bậc thang giá trị đã đánh giá cao vị thế xã hội của người thầy. Tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc và quan niệm về giáo dục của cha ông, trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) Đảng và Nhà nước ta cũng xác định “phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu của quốc gia”. Như vậy, ngay trong quy định của Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta đã xác định tầm quan trọng của giáo dục, không có sự đầu tư nào mang lại nhiều lợi ích như đầu tư cho giáo dục, bởi giáo dục là hoạt động mà qua đó hình thành nên nhân cách của công dân, đào tạo nên những người lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Xã hội ngày càng phát triển, thế giới đang bước vào thời đại của công nghệ 4.0 với rất nhiều chính sách mở cửa, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia đã giúp cho nền kinh tế nước ta phát triển một cách vượt bậc. Điều đó đã tác động ít nhiều đến sự nhận thức, hiểu biết của các học sinh. Cho nên chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng học sinh ngày nay thông minh, nhanh nhẹn, sáng tạo và hiểu biết hơn. Các em có nhiều cơ hội để học tập trải nghiệm và tiến tới thành công. Thế nhưng, cùng với những cơ hội ấy, thế hệ trẻ hôm nay cũng phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thử thách đặc biệt là những cám dỗ, cạm bẫy của thời kỳ công nghệ số. Những cái xấu đã và đang len lỏi vào thế hệ trẻ khiến những người làm công tác giáo dục, các bậc phụ huynh phải băn khoăn, lo lắng. Qua thực tế, chúng ta nhận thấy đạo đức và tinh thần ham học của học sinh đang trên đà đi xuống, tình trạng bạo lực học đường diễn ra ngày càng nhiều hơn, có những học sinh chán nản, bỏ bê việc học, không muốn tới trường và rồi sa vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, thuốc lá điện tử hay tìm đến nhiều trò chơi tiêu khiển khác. Đau lòng hơn nữa là có những học sinh sẵn sàng vô lễ và chống đối lại thầy cô giáo đang dạy mình. Chúng không tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc khi tới trường. Thực trạng ấy không chỉ là trách nhiệm của mỗi gia đình mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó có cả những người đã và đang làm công tác giáo dục. Trong những năm trở lại đây, toàn ngành giáo dục đã tập trung thực hiện Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; triển khai thực hiện Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông. Để thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục, đòi hỏi các cơ sở giáo dục phải tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học; thực hiện nghiêm kỷ cương, nề nếp, dân chủ trong trường học, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học đường và thực hiện tốt vệ sinh trường học; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống và ứng xử văn hóa cho học sinh. Đây được xem là nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục trong đó giáo viên làm công tác chủ nhiệm đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Như chúng ta đã biết, GVCN không chỉ là nhà quản lí học sinh mà còn phải dạy dỗ và chịu trách nhiệm về mặt học tập, đạo đức của các em. Với tư cách là nhà sư phạm, GVCN có trách nhiệm truyền đạt tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, cảm hóa, bằng sự gương mẫu của người giáo viên chủ nhiệm, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự giác, tự nguyện. Mặt khác, GVCN là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng học sinh trong lớp để phản ánh với BGH, với các tổ chức trong nhà trường và các giáo viên bộ môn. Khi tiếp nhận thông tin từ học sinh, người giáo viên chủ nhiệm cần xử lí kịp thời với tư cách là nhà sư phạm, điều đó có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn các tình huống xấu có thể xảy ra trong trường học. Sự thật là, có rất nhiều học sinh có thể tâm sự, chia sẻ mọi vấn đề của mình với GVCN. Do đó, chủ nhiệm lớp là một công việc khó khăn, vất vả nhưng vô cùng vinh dự và đáng tự hào. Nhận thức được vai trò quan trọng của GVCN lớp trong suốt thời gian công tác tôi đã dành rất nhiều thời gian, tâm sức cho công tác chủ nhiệm lớp. Làm thế nào để GVCN hoàn thành tốt sứ mệnh của mình? Làm như thế nào để xây dựng một môi trường học tập thực sự hạnh phúc? Làm thế nào để học sinh cảm thấy lớp học của mình giống như một gia đình và bản thân các em là thành viên trong gia đình ấy? Những câu hỏi đó đã luôn trăn trở và thường trực trong lòng tôi. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc” mục đích giúp cho HS cảm thấy vui vẻ, hứng thú và hạnh phúc khi được học tập trong chính ngôi trường của mình. - Thời gian thực nghiệm: Từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 5 năm 2023. - Đối tượng: HS lớp 7A trường THCS Việt Thống, xã Việt Thống, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh với 43 em. Đây là lớp do tôi trực tiếp chủ nhiệm. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng công tác chủ nhiệm và tính cấp thiết 1.1. Thuận lợi - BGH trường THCS Việt Thống luôn đề cao vai trò của người giáo viên làm công tác chủ nhiệm, luôn tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để giáo viên hoàn thành xuất sắc công tác chủ nhiệm lớp. - Giáo viên chủ nhiệm năng nổ, thích học hỏi, tìm tòi sáng tạo là người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn nên thời gian tiếp xúc với lớp chủ nhiệm rất nhiều (4 tiết/1 tuần). - Đội ngũ các thầy cô giáo bộ môn nhiệt tình, yêu nghề và trách nhiệm cao, chuyên môn vững vàng. - Hầu hết các em đều có lực học khá trở lên, ý thức tự học tập và rèn luyện khá tốt. - Đội ngũ cán bộ lớp làm việc rất nghiêm túc, hiệu quả. - Các tổ chức Đoàn, Đội trong nhà trường hoạt động tích cực, tạo nhiều sân chơi cho học sinh có cơ hội được trải nghiệm và rèn luyện bản thân. 1.2. Khó khăn - Trong lớp có nhiều đối tượng học sinh khác nhau, mỗi em là một cá thể mang trên mình những tính cách riêng. Bên cạnh đó nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn như nghèo, cận nghèo; có những học sinh bố mẹ ly hôn phải ở với ông bà nội (ngoại) - Xã Việt Thống vẫn được coi là “vùng trũng” về phát triển kinh tế của thị xã Quế Võ, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình phải đi làm ăn xa để con cái ở nhà với ông bà. Chính vì vậy, phụ huynh không nhiều có thời gian để quan tâm và sát sao tới việc học tập của con cái. - Trong lớp vẫn còn tồn tại tình trạng chưa biết đoàn kết, yêu thương, chia sẻ và giúp đỡ lần nhau; đôi khi còn xuất hiện tình trạng chia bè kết phái. Trước khi thực nghiệm đề tài của mình, tháng 10 năm 2022, tôi có tiến hành khảo sát về mức độ hạnh phúc của học sinh khi tới lớp thông qua bộ câu hỏi sau: PHIẾU KHẢO SÁT VỀ MỨC ĐỘ HẠNH PHÚC CỦA HS KHI ĐẾN LỚP 1, Theo bạn, việc học có vai trò như thế nào? * Quan trọng * Bình thường * Không quan trọng 2, Bạn cho rằng việc học tập của bạn là? * Quyền lợi, sự ưu tiên dành cho mình * Nghĩa vụ, trách nhiệm của mình * Cả hai ý kiến trên 3, Hàng ngày đi học bạn cảm thấy thế nào? * Rất thích * Thích * Bình thường * Chán 4, Cảm nhận của bạn về các tiết học ở trên lớp? * Hứng thú với tất cả các tiết học trên lớp * Chỉ hứng thú với tiết học của một số môn hoặc một số thầy cô * Bình thường * Chán tất cả các tiết học 6, Ở trường mối quan hệ của bạn với bạn bè xung quanh như thế nào? * Tốt đẹp * Bình thường * Tệ * Rất tệ 7, Bố mẹ bạn có biểu hiện như thế nào trước kết quả học tập của bạn? * Vui vẻ, hài lòng * Không có biểu hiện gì * Luôn động viên khích lệ * Không hài lòng 8, Quan hệ giữa bạn với các thầy cô giáo? * Thân thiện, gần gũi * Thầy cô rất nghiêm khắc xa cách với học sinh * Bình thường 9, Bạn có hay nhận được lời khen ngợi từ các thầy cô giáo * Thường xuyên * Thỉnh Thoảng * Không bao giờ 10, Mỗi khi nhận sự chỉ trích, chê bai từ thầy cô hoặc bố mẹ em cảm thấy như thế nào? * Rất buồn chán * Bình thường vì đã quen * Hơi buồn * Chán ghét, tự ti, mặc cảm 11, Đến trường bạn có cảm giác an toàn (trước nguy cơ bạo lực học đường và các tệ nạn xã hội) không? * Có * Không 12, Bạn có thấy yêu mến, gắn bó với trường học của mình? * Có * Không 13, Bạn mong muốn điều gì từ phía các thầy cô giáo và bố mẹ mình để việc học tập của bạn trở nên thoải mái, hạnh phúc hơn? Sau quá trình thu thập và phân tích kết quả khảo sát từ HS tôi đã thu được bảng số liệu sau: Số học sinh (43HS) Tỉ lệ % Chưa bao giờ hạnh phúc 0 0% Hiếm khi hạnh phúc 13 30.23% Thỉnh thoảng hạnh phúc 18 41.86% Thường xuyên hạnh phúc 12 27.91% Quá trình phân tích phiếu khảo sát cũng giúp cho tác giả tìm ra được nguyên nhân khiến cho học sinh ít hạnh phúc đó là: + Nguyên nhân chủ quan: Ý thức học tập chưa cao, mục đích học tập chưa rõ ràng. Học sinh luôn cảm thấy thiếu tự tin, ngại giao tiếp, không biết thể hiện bản thânMột số học sinh bị lôi kéo hấp dẫn bởi các trò tiêu khiển như game, mạng xã hội, ăn diện + Nguyên nhân khách quan: Do áp lực thi cử hoặc bị cha mẹ, thầy cô trách mắng, những tiết học chưa gây được sự hứng thú cho người học, không được chia sẻ, được quan tâm từ bạn bè, thầy cô và gia đình. Từ thực trạng và những nguyên nhân ở trên, tôi xin mạnh dạn nêu ra một số kinh nghiệm của bản thân khi xây dựng: “Lớp học hạnh phúc” mà trong những năm qua tôi đã áp dụng có hiệu quả. 2. Một số biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc 2.1. Khái niệm “Lớp học hạnh phúc” Để xây dựng được một lớp học hạnh phúc, trước hết GVCN cần phải hiểu rõ “Thế nào là lớp học hạnh phúc ?”. Bàn về vấn đề này, tác giả xin dẫn ra một số ý kiến như sau: Đại diện trường Tiểu học Sunshine Maple Bear cho biết: “Hiểu một cách đơn giản, lớp học hạnh phúc là nơi khiến cả cô và trò đều có cảm giác “muốn đến”. Khi đến sẽ có hứng thú, niềm vui, sự mong chờ và những rung cảm”. Cô Cao Thị Sâm - Giáo viên trường Mầm non Xuân Hải - Hà Tĩnh cho rằng: “Lớp học hạnh phúc là lớp học mà trẻ luôn cảm thấy ở đó mình vui vẻ, được yêu thương, quan tâm dạy dỗ, chăm sóc như gia đình”. Giáo sư Hà Vĩnh Thọ (Nguyên Giám đốc Trung tâm Tổng hạnh phúc Quốc gia Bhutan) đã nói: “Có thể hiểu, trường học hạnh phúc là nơi không có bạo lực học đường, không có hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo, không có những hành xử xúc phạm danh dự, nhân phẩm, tính mạng nhà giáo và học sinh. Trường học hạnh phúc là nơi để thầy cô và các em học sinh có cơ hội gần gũi, giao tiếp với nhau thông qua sự sẻ chia, thấu cảm và yêu thương; cũng là mái nhà chung, ở đó mỗi ngày đến trường là một niềm hạnh phúc. Đôi khi hạnh phúc cũng chỉ là những việc làm hữu ích thầm lặng, những niềm vui nho nhỏ, những nụ cười, những ánh mắt thân thương”. Như vậy, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm của lớp học hạnh phúc, nhưng theo quan niệm của bản thân tôi: Lớp học hạnh phúc là nơi mà mọi người biết lắng nghe, thấu hiểu, biết chia sẻ, đồng cảm. Ở đó tất cả đều được tôn trọng, được ghi nhận, được an toàn và được sống trong tình yêu thương. Như vậy lớp học hạnh phúc là lớp học mà cả cô và trò đều cảm thấy hạnh phúc. 2.2. Các tiêu chí để xây dựng lớp học hạnh phúc Từ quan niệm về ở lớp học hạnh phúc ở trên, người viết xin đưa ra 4 tiêu chí để xây dựng hạnh phúc đó là: Lắng nghe, thấu hiểu Chia sẻ, đồng cảm Tôn trọng, được ghi nhận An toàn, yêu thương Trong môi trường giáo dục GVCN cần phải biết lắng nghe chia sẻ, đồng cảm đối với các em học sinh từ đó gắn kết tình cảm cô trò để xây dựng một lớp học hạnh phúc. Có thể nói, GVCN không chỉ đóng vai trò là một người Thầy mà còn là người Cha, người Mẹ, người bạn trong lòng mỗi học trò. 2.3. Một số biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc - Biện pháp 1: Vận dụng quy tắc 2H (Hiểu rõ - Hợp tác) để xây dựng lớp học hạnh phúc - Biện pháp 2: Vận dụng quy tắc 2N (Nghiêm khắc - Ngọt ngào) để xây dựng lớp học hạnh phúc - Biện pháp 3: Vận dụng quy tắc 2T (Tôn trọng - Trách nhiệm) để xây dựng lớp học hạnh phúc 3. Thực nghiệm sư phạm 3.1. Mô tả cách thức thực hiện 3.1.1. Biện pháp 1: Vận dụng quy tắc 2H (Hiểu rõ - Hợp tác) để xây dựng lớp học hạnh phúc Như chúng ta đã biết, để xây dựng được môi trường lớp học hạnh phúc thì GVCN đóng vai trò vô cùng quan trọng. Họ là người định hướng, là kim chỉ nam để dẫn đường cho mỗi học trò của mình tiến tới thành công và hạnh phúc. Vì vậy, mỗi giáo viên phải là người tiên phong cho việc thay đổi lớp học truyền thống, mạnh dạn thay đổi các lối mòn cũ để hướng tới phương pháp dạy học tích cực và phù hợp với nhu cầu đặc điểm của học sinh. Thầy cô thay đổi, học sinh sẽ hạnh phúc, thầy cô hạnh phúc thì trường học cũng sẽ hạnh phúc. Vì vậy, việc áp dụng quy tắc 2H sẽ giúp GVCN có khả năng lắng nghe và thấu hiểu học sinh hơn. Đây cũng chính là một trong những tiêu chí cơ bản để xây dựng một lớp học hạnh phúc. Hiểu rõ - Để hướng tới mục tiêu xây dựng lớp học hạnh phúc, trước tiên GVCN phải tìm hiểu thật kĩ về HS của mình. Câu hỏi đặt ra là “GV cần tìm hiểu những gì?”. Theo tôi, muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em. Bên cạnh đó, GVCN cũng cần nắm bắt được rõ hơn về hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm sinh lý, năng lực học tập cũng như năng khiếu của từng HS. Đặc biệt là, GV cũng cần tìm hiểu một cách hết sức tế nhị với những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt từ cán bộ lớp đến những em thuộc “nhóm” học sinh “chưa ngoan” để từ đó có kế hoạch hợp lý và phối hợp với gia đình để giáo dục các em. - Một vấn đề đặt ra là “chúng ta cần tìm hiểu các thông tin trên bằng cách nào?”. Theo tôi, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu qua GVCN cũ, các GVBM, qua PHHS và nhiều kênh thông tin khác. Thậm chí, những cuộc tâm sự, trò chuyện gần gũi với học trò trong lúc rảnh rỗi cũng là cơ hội để GVCN tìm hiểu rõ hơn về chính HS của mình. Ngoài ra, GVCN có thể tìm hiểu ngay về HS của mình thông qua việc yêu cầu phụ huynh và học sinh hoàn thành bản sơ yếu lý lịch đầu năm học. Ví dụ: Ngay khi tiếp quản lớp chủ nhiệm tôi đã thiết kế cho học sinh bản sơ yếu lý lịch nhằm cung cấp cho GVCN những thông tin cơ bản, cần thiết về các HS trong lớp: SƠ YẾU LÍ LỊCH HỌC SINH I. Phần tự ghi của học sinh 1. Họ và tên học sinh:. Giới tính: ............ 2. Ngày. tháng. năm sinh Dân tộc:.... Tôn giáo:............. 3. - Địa chỉ thường trú: Xóm..thôn ..xã .huyện ........ 4. - Họ, tên cha: ...........Nghề nghiệp:....SĐT:.. - Họ, tên mẹ: ..............Nghề nghiệp:.SĐT:.... 5. Điều kiện kinh tế gia đình:........................................................ 6. Xếp loại của năm học 2021 - 2022: - Học lực:.Rèn luyện:. - Chức vụ đã làm ở năm học trước:... 7. Năng khiếu: Môn học yêu thích:. 8. Các bạn thân hiện nay: 9. Em có cảm thấy hạnh phúc khi đến trường không? Điều gì khiến em thích/ không thích khi học tập tại trường? 10. Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học này: Học lực:..Rèn luyện: 11. Em có ý kiến, đề nghị gì với GVCN và nhà trường: ................................................................................................................................. II. Phần ghi của PHHS 1. Phụ huynh có thường xuyên quan tâm, giáo dục con em mình hay không? Vì sao?............................................................................................................... 2. Phụ huynh tạo điều kiện gì cho con em mình học tốt ? ................................................................................................................................. 3. Phụ huynh có nhận xét gì về con em mình? . 4. PHHS có đề nghị gì với nhà trường và GVCN? . Để kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà tôi thu thập được qua bản sơ yếu lý lịch ở trên, tôi phải cố gắng tìm hiểu thông qua nhiều kênh khác nhau như từ bạn bè, người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số học sinh, Qua đó, tôi sẽ có những hiểu biết cụ thể và chi tiết hơn về bản thân mỗi HS của mình. Từ đó tôi có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em bởi giáo dục không phải là một công thức chung có sẵn. Với kinh nghiệm chủ nhiệm của bản thân mình tôi nhận ra rằng yếu tố đầu tiên để thầy cô và học trò cùng hạnh phúc là chúng ta phải hiểu thật sâu, thật rõ về từng HS của mình. Đó cũng chính là nền tảng để GVCN có thể hợp tác và nhận được sự yêu thương, kính trọng từ học sinh. Hợp tác Như chúng ta đã biết hợp tác là sự kết nối giữa các cá nhân. Đó là khi mọi người cùng đóng góp công sức vào một công việc chung, hướng đến mục tiêu chung. Trong quá trình đó, mỗi cá nhân đều tham gia vào công việc. Hợp tác là sự tương tác dựa trên việc hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Để xây dựng được giá trị hợp tác trong lớp học, thứ nhất GVCN cần xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa HS với HS. Khi học sinh biết cách hợp tác với nhau là khi chúng học được cách làm việc chủ động, trách nhiệm vì công việc; đó cũng là cơ hội để HS học được cách lắng nghe, chia sẻ và chấp nhận sự khác biệt của các bạn, biết dung hòa các mối quan hệ trong quá trình hợp tác. Và đây cũng chính là nền tảng của một lớp học vui vẻ, hạnh phúc. Vậy, GVCN cần làm gì để phát huy tính hợp tác giữa HS với HS? Trước tiên, tôi đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần giáo dục của chương trình phổ thông 2018, ở đó HS giữ vai trò trung tâm của hoạt động học, được phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của từng HS. Bên cạnh đó, tôi cũng chủ động biến giờ sinh hoạt sinh hoạt của lớp thành diễn đàn để học sinh có thể được bộc bạch, chia sẻ mọi tâm tư tình cảm của mình. Từ những chia sẻ đó, HS sẽ có cơ hội hiểu nhau hơn, gỡ bỏ những vướng mắc trong lòng để có thể hợp tác với nhau tốt hơn. Không những thế, tôi luôn khuyến khích học sinh tham gia mọi hoạt động thi đua của trường, lớp tiêu biểu như: thi đua chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, thi đua chào mừng ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Ví dụ trong đợt thi đua chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 để tất cả học sinh đều được tham gia các hoạt động do nhà trường tổ chức tôi đã chủ động trao đổi bàn bạc với học sinh để lựa chọn các nhóm tham gia với tiêu chí: Không ai bị bỏ lại phía sau. Tôi không áp đặt cho HS lớp mình phải luôn dành giải cao trong các cuộc thi đua mà đích đến cuối cùng là tất cả các học sinh đều được tham gia các hoạt động ấy một cách nhiệt tình, vui vẻ. Cụ thể như 100% học sinh thi đua dành bông hoa điểm tốt dâng lên thầy cô; một nhóm học sinh tham gia thi văn nghệ, một nhóm khác sẽ làm báo tường, các nhóm còn lại tham gia thể dục thể thao. Tất cả học sinh dù có năng khiếu hay không có năng khiếu đều sẽ tham gia, chỉ cần các em có một tinh thần tự giác và nghiêm túc. Kết quả là sau cuộc thi các học sinh của tôi đều trưởng thành hơn, các con học được cách hợp tác với nhau, có được sự vui vẻ và đoàn kết. HS tham gia vẽ trang trí báo tường chào mừng 20/11 Thứ hai, bên cạnh việc xây dựng giá trị hợp tác giữa HS với HS, GV cũng cần chú trọng xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa GV với HS, GV với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: các PHHS, GVBM, tổ chức Đoàn - Đội và chính q
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_de_xay_dung_lop_hoc_h.docx