Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh Lớp 1 khi học môn Tiếng Việt
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh Lớp 1 khi học môn Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh Lớp 1 khi học môn Tiếng Việt
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 khi học môn Tiếng Việt. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học Tiếng Việt lớp Một theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018. 3. Tác giả Họ và tên: PHẠM THỊ HUỆ Ngày, tháng, năm sinh: 18/ 12/ 1980 Chức vụ, đơn vị công tác: Phó tổ trưởng tổ 1, 2, 3 Trường Tiểu học Vĩnh Phong – Tiền Phong Điện thoại: 0378475890 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến Tên đơn vị: Trường Tiểu học Vĩnh Phong – Tiền Phong Địa chỉ: Xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP Đà BIẾT 1. Giải pháp đã biết Như chúng ta đã biết, theo Lê Nin: “Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người”, với Các Mác: “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng”. Ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan trọng của ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết của kỹ năng đọc trong môn Tiếng Việt. Có đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh lớp Một chỉ được công nhận khi các em biết đọc, biết viết. Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí đặc biệt quan trọng trong 4 kĩ năng nghe đọc nói viết trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhất là các em học sinh lớp Một - lớp đầu cấp đặt nền móng cho khối kiến thức về sau. Ngay từ đầu năm học, việc học môn Tiếng Việt theo chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã thể hiện rất rõ tầm quan trọng của môn học này bởi nó chiếm 420 tiết / năm học( môn học có số tiết nhiều nhất trong 9 môn học chính ở lớp Một). Điều này đã chứng tỏ giáo dục đang thay đổi chương trình và môn Tiếng Việt đang được chú trọng. Học sinh vừa mới đến trường còn quá non yếu về mọi mặt, từ ý thức học tập đến những kĩ năng học bài. Ngay buổi đầu vào học, cô giáo đã phải dỗ dành, chăm chút, từng bước đưa các em vào nền nếp học tập theo một lộ trình mà kế hoạch dạy học đã đề ra. Đặc biệt hơn những em chưa qua mẫu giáo thì việc tham gia học tập những buổi đầu càng gây nhiều khó khăn cho giáo viên hơn nữa. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nhiều trở ngại trong việc dạy học Tiếng Việt của giáo viên. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như ảnh hưởng của tiếng địa phương, cấu tạo bộ máy phát âm. mà các em có những phát âm chưa chuẩn dẫn đến gặp khó khăn khi học Tiếng Việt mà cụ thể là phát âm chuẩn Tiếng Việt. Là một giáo viên dạy lớp Một - lớp học nền tảng ở bậc Tiểu học, tôi luôn chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng học Tiếng Việt cho các em bởi đây là tiền đề cho các em học tập các môn khác. Bên cạnh đó sách Tiếng Việt bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” đã thay đổi hoàn toàn hình thức cũng như nội dung dạy học: Phần học vần, có bài học bốn vần, không có bài học riêng về dấu thanh mà được học xen kẽ cùng với các âm; mỗi bài học, học sinh phải thực hiện được 5 nội dung gồm: Nhận biết, đọc, tô và viết, đọc và nói. Thời lượng thực hiện trong 2 tiết/ bài. Điều này cho thấy khâu đọc rất được chú trọng. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản, mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc.Với lòng ham thích và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi thêm kinh nghiệm từ thực tế nhà trường nên tôi đã chọn vấn đề “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 khi học môn Tiếng Việt”. 2. Ưu điểm Với giáo viên Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn đã tổ chức tập huấn, bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh Tiểu học cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy. Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm của người giáo viên. Họ luôn sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như năng lực phẩm chất. Với học sinh Ở độ 6 - 7 tuổi của học sinh lớp 1, các em rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng. Với phụ huynh Hầu hết phụ huynh đều quan tâm đến việc học tập của con, không khoán trắng việc học hành của con cho giáo viên, nhà trường. Phụ huynh luôn phối hợp với giáo viên, chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt nhất cho con đến lớp cũng như học tập ở nhà. Giải pháp đơn giản, dễ thực hiện và có thể áp dụng với mọi khối lớp. 3. Tồn tại, bất cập Vì mang tính độc lập, khách quan, khó chủ động (với những học sinh hiếu động, khả năng nhận thức chậm) Nguyên nhân: Nhận thức của học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. Một số em do cấu tạo bộ máy phát âm nên còn phát âm sai. Do đặc trưng vùng miền, ảnh hưởng việc phát âm tiếng địa phương nên các em phát âm sai. Phụ huynh trong lớp làm nông nghiệp, làm công nhân thường xuyên đi làm về muộn, một số gia đình kinh tế khó khăn, bố mẹ chia tay, con ở với ông bà phần nào ảnh hưởng đến tâm lý và việc học tập của các em. III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN III. 1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các lỗi: Về thanh điệu: thanh ngã và sắc. Về âm đầu: c/k, g/gh, ng/ngh, ch/tr, s/x, r/d/gi đặc biệt là lỗi về âm đầu l/n. Về âm cuối: n/ng, t/c, t/ch, n/nh. Về các vần: ai/ay/ây, iu/êu/iêu , ui/uôi, um/uôm, iu/ ươu Chính vì vậy trong quá trình dạy học, tôi đã áp dụng các giải pháp nhằm giúp học sinh rèn kĩ năng phát âm chuẩn khi học môn Tiếng Việt, cụ thể: Giải pháp thứ nhất: Rèn cho học sinh phát âm theo mẫu. Giáo viên cần luyện kĩ năng phát âm chuẩn cho học sinh ngay từ chữ cái đầu tiên. Muốn học sinh phát âm chuẩn trước hết giáo viên phải phát âm chuẩn, phải biết cách lắng nghe và quan sát cách phát âm của từng học sinh để nhanh chóng nhận ra lỗi phát âm của các em. Từ đó giáo viên lập kế hoạch hướng dẫn cho các em phát âm theo mẫu. Giáo viên cho học sinh tự nêu lỗi phát âm của mình hoặc cho học sinh nhận ra lỗi sai của bạn sau đó giáo viên hướng dẫn cách phát âm và đọc mẫu tiếng, cho học sinh phát âm lại thật chính xác. Luyện đọc từ ngữ: Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này. Ví dụ: Khi dạy bài M, m, N, n (sách Tiếng Việt 1 tập 1 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 44). Sau khi giáo viên và học sinh cùng thực hiện đọc xong phần âm, ghép âm để đọc từ ở hoạt động 2( Đọc). Đến phần quan sát tranh để đọc từ ngữ, giáo viên lần lượt đưa tranh minh hoạ cho từ cá mè, ca nô đọc mẫu và lưu ý phát âm đúng âm “n” trong tiếng “nô”. Liên hệ với cá nuôi ao, hồ gần gũi với đời sống của học sinh nông thôn. cá mè ca nô Giáo viên đưa vật thật minh họa cho từ lá me, nơ đỏ. Sau đó giáo viên cần đọc mẫu, đọc chậm, phát âm rõ từ ngữ lá me (lờ-a-la-sắc-lá. Mờ-e-me), uốn lưỡi cong để học sinh bắt chước rồi đọc theo vì những từ ngữ này thường không chỉ học sinh đọc sai vì mới đọc mà một số em do ảnh hưởng của phương ngữ nên phát âm nhầm lẫn l với n hoặc ngược lại. Hoặc khi dạy bài G, g, Gi, gi (sách Tiếng Việt 1 tập 1 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 46). Sau khi giáo viên và học sinh cùng thực hiện đọc xong phần âm, ghép âm để đọc từ ở hoạt động 2( Đọc). Đến phần quan sát tranh để đọc từ ngữ, giáo viên lần lượt đưa tranh minh hoạ cho từng từ ngữ: gà gô, đồ gỗ, giá đỗ, cụ già. đồ gỗ Sau đó giáo viên cần đọc mẫu, đọc chậm, phát âm rõ từ ngữ với âm “gi” trong tiếng “giá”, “già” và dấu ngã (g - ô - gô - ngã - gỗ, đ- ô - đô - ngã - đỗ) để học sinh bắt chước rồi đọc theo do học sinh phát âm nhầm lẫn âm d/ gi; dấu sắc với dấu ngã hoặc ngược lại. Hay với bài 44: iu, ưu( SGK trang 100); bài 69: ươi, ươu( SGK trang 150) học sinh phát âm sai vần ưu, ươu thành iu. Bài 68: uôn, uông( SGK trang 148); bài 73: ươn, ương( SGK trang 158) một số em phát âm sai âm cuối ng thành n. Giáo viên cần phát âm mẫu các vần thật chậm sau đó cho học sinh phân tích cấu tạo vần thấy được sự khác nhau của các vần trong từng bài học dẫn đến đọc cũng khác nhau giúp học sinh phân biệt và đọc chính xác. Đọc đúng dạng thơ Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường đưa lên màn hình các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn. Giải pháp thứ hai: Phân tích giữa âm và chữ ghi âm Giáo viên hướng dẫn cách phát âm của từng âm ví dụ: âm "v" với phụ âm “v” giáo viên cần mô tả vị trí của lưỡi, răng trên ngậm hờ môi dưới, hơi ra bị sát nhẹ rồi giáo viên phát âm mẫu, học sinh luyện đọc theo. Tương tự khi dạy bài bài T, t, Tr, tr (sách Tiếng Việt 1 tập 1 – Bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống, trang 56) với âm tr đầu lưỡi chạm vào vòm cứng bật ra không có tiếng thanh. Khi giáo viên phát âm mẫu từ “cá trê” hay “tre ngà” đều phải thực hiện như trên để chuẩn âm giúp học sinh lắng nghe và làm theo chuẩn. Tương tự khi dạy bài bài V, v, X, x (sách Tiếng Việt 1 tập 1 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” trang 66). Giáo viên phát âm x khe hẹp phía đầu lưỡi và răng - lợi hơi thoát nhẹ không có tiếng thanh. Ví dụ: vở vẽ, vỉa hè, xe lu;.... Trong khi hướng dẫn học sinh đọc giáo viên kết hợp với tranh ảnh, vật thật và sau mỗi bài học các âm tôi đã cho các em luyện đọc ngay ở tiết luyện đọc, luyện nói vào buổi chiều và cả trong các môn học khác để khắc sâu kiến thức hơn. c) Giải pháp thứ ba: Chữa lỗi phát âm chưa đúng thanh điệu cho học sinh Theo nội dung chương trình sách giáo khoa lớp Một mới bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” không có bài học riêng về dấu thanh mà các dấu thanh được dạy lồng ghép trong một số bài học âm đầu năm nên tôi giúp học sinh xác định, nhớ, đọc đúng các dấu thanh. Trong lớp tôi nghiên cứu có nhiều học sinh phát âm chưa đúng ở các tiếng chứa dấu thanh. Vì vậy tôi phân tích các tiếng rồi cho học sinh phân biệt các dấu thanh gắn trên các tiếng đó, sau đó đọc mẫu và hướng dẫn các em cách phát âm đúng, từ đó các em đọc theo và giáo viên uốn nắn sửa chữa kịp thời. Ví dụ: Thanh ngã các em hay lẫn với thanh sắc như: khi học bài G g Gi gi khi đọc trơn từ “đồ gỗ” các em thường đọc sai là “đồ gố”, “giá đỗ”đọc là “giá đố”. Trong bài 66: uôi, uôm các em đọc sai tiếng “muỗi” thành “muối”, tiếng “muỗm” thành “muốm” Ngoài ra trong các tiết bổ trợ tiếng Việt, hoạt động trải nghiệm tôi thường dành thời gian cho học sinh đọc sách. Tôi thường đưa ra một số tiếng từ chữa dấu thanh học sinh thường đọc không đúng và nêu tác hại khi phát âm không đúng người nghe sẽ hiểu nghĩa khác đi rồi yêu cầu học sinh luyện đọc đúng theo nhiều hình thức cá nhân, nhóm, đôi bạn cùng đọc cho nhau nghe. d) Giải pháp thứ tư: Luyện tập, thực hành trong các môn học và giao tiếp Giáo viên luôn động viên nhắc nhở các em phải luôn mạnh dạn rèn phát âm chuẩn trong tất cả các môn học. Học sinh cần chú ý, quan sát, lắng nghe cô giáo hướng dẫn, tự tin, chăm chỉ trong học tập, biết phối hợp cùng bạn bè, mạnh dạn hỏi thầy, cô giáo và bạn bè khi mình chưa hiểu, luôn có ý thức luyện phát âm đúng không những trong phân môn Tập đọc mà các em cần phải phát âm chuẩn trong các môn học khác và trong cuộc sống hằng ngày. Tôi nhắc học sinh hằng ngày dành thời gian hợp lí để đọc báo, đọc truyện trong sáng lành mạnh rèn kĩ năng đọc đúng và sửa lỗi phát âm sai (nếu có) Tôi thường xuyên liên hệ trao đổi với phụ huynh học sinh về tình hình học tập của con nói chung và việc đọc nói riêng. Tôi chỉ ra những lỗi học sinh mắc phải trên lớp, phối hợp với phụ huynh học sinh cho các con luyện đọc và lưu ý sửa lỗi sai. e) Giải pháp thứ năm: Sử dụng tranh ảnh và dụng cụ học tập một cách thường xuyên trong tiết dạy. Tranh ảnh và đồ dùng dạy học rất quan trọng không thể thiếu được trong việc dạy học nhất là ở môn Tiếng Việt. Tuy bộ sách mới “Kết nối tri thức với cuộc sống” cũng đã sử dụng rất nhiều kênh hình để minh họa âm, vần, tiếng, từ ngữ để các em đọc nhưng chủ yếu là tranh vẽ nên thu hút học sinh chưa cao. Do đó tôi nhận thấy việc sử dụng thêm những tranh ảnh chụp thực tế vật thật, hình ảnh, video hoạt động hằng ngày của các em để các em quan sát từ đó giáo viên nêu yêu cầu các em phát âm chuẩn các từ đó sẽ hiệu quả hơn cho bài học. Ví dụ: Khi dạy bài Khi dạy bài M, m, N, n (sách Tiếng Việt 1 tập 1 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” trang 44). Ở phần đọc các từ ngữ, tôi dùng chiếc nơ màu đỏ cho các em quan sát. Tôi đưa lá me cho học sinh quan sát và trực tiếp sờ vào để đưa từ mới “ nơ đỏ”, “lá me” Sau đó gọi một số em đánh vần và đọc trơn từ. Qua đó liên hệ sử dụng nơ( trang trí, làm đẹp - nơ buộc tóc của bạn gái) và lá me( sử dụng đun nước tắm khi bị ngứa, thủy đậu) trong thực tiễn cuộc sống. Hay với bài Th, th, ia (sách Tiếng Việt 1 tập 1 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” trang 58). Ở phần đọc các từ ngữ, tôi dùng phong bì thư thật, chiếc thìa, dĩa, cành lá tía tô thật cho các em quan sát để đưa từ (lá thư, thìa dĩa, lá tía tô) Sau đó gọi một số em đánh vần và đọc trơn tiếng, từ, liên hệ cách sử dụng các đồ vật trên trong cuộc sống. Hoặc bài 33: en, ên, in, un(sách Tiếng Việt 1 tập 1 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” trang 78), với tiếng “khèn”, tôi dùng hình ảnh chiếc khèn, múa khèn của dân tộc vùng cao để giải thích cho các em. Chiếc khèn Múa khèn Hay với bài “Bác trống trường” (sách Tiếng Việt 1 tập 2 - Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 56) tôi không sử dụng tranh trong sách giáo khoa trang 56 mà dùng hình ảnh của chính các em đang chuẩn bị dự lễ khai giảng năm học mới, hình ảnh cô Hiệu trưởng của trường đang đánh hồi trống bắt đầu năm học mới cho các em quan sát để vào bài học. Hình ảnh buổi Lễ khai giảng g) Giải pháp thứ sáu: Luyện phát âm chuẩn bằng các trò chơi Trò chơi là một cách học thú vị để làm quen với một sinh hoạt xã hội. Một mặt các em có thể trò chuyện, thư giãn học mà chơi. Mặt khác các em có dịp được học thêm những kĩ năng và cả nội dung chủ đề của trò chơi. Những trò chơi như thế này rất dễ thực hiện bằng cách sử dụng các kẹp tài liệu, các bút viết hay chỉ cần một tấm bìa cứng. Chủ đề có thể nhiều lĩnh vực kĩ xảo ngôn ngữ, thông tin cần học có thể đặt vào các hình vuông hay từ hình ảnh nêu từ ngữ tương ứng. Hoặc cũng chỉ đơn giản là một bông hoa với nhụy là chủ đề và các nhóm thảo luận tự vẽ, ghi từ của chủ điểm vào mỗi cánh hoa sau đó dán hoa của nhóm lên bảng và trình bày Giải pháp này giúp học sinh khắc sâu trong trí nhớ hơn và hứng thú học hơn. Bên cạnh đó việc đánh giá học sinh lớp Một theo Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT ngày 4/9/2020 cũng góp phần không nhỏ trong việc điều chỉnh hoạt động học của học sinh và hoạt động dạy của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Cụ thể: qua việc đánh giá, giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát triển phẩm chất năng lực học sinh đồng thời giúp học sinh có khả năng tự nhận xét, tham gia nhận xét, tự học, tự điều chỉnh cách học, giao tiếp để học tập và rèn luyện tiến bộ. III. 2. Tính mới, tính sáng tạo III. 2. 1. Tính mới Giáo viên luôn động viên nhắc nhở các em phải luôn mạnh dạn rèn phát âm chuẩn trong tất cả các môn học, chú ý, quan sát, lắng nghe cô giáo hướng dẫn, tự tin, chăm chỉ trong học tập, biết phối hợp cùng bạn bè, mạnh dạn hỏi thầy, cô giáo và bạn bè khi mình chưa hiểu, luôn có ý thức luyện phát âm đúng mọi lúc, mọi nơi. Học sinh chủ động tích cực tham gia các hoạt động học tập trên lớp và hoạt động ngoài giờ, biết tự đánh giá bản thân, đánh giá bạn, tự nhận ra lỗi và có ý thức sửa lỗi. Hằng ngày dành thời gian hợp lí để đọc báo, đọc truyện trong sáng lành mạnh. Học sinh đọc sách trong giờ ra chơi III. 2. 2. Tính sáng tạo Việc đọc đúng góp phần nâng cao hiệu quả của việc học tập ở trường Tiểu học nói chung cũng như kĩ năng sử dụng Tiếng Việt và phát triển tư duy cho học sinh lớp Một nói riêng, từ đó góp phần vào việc hình thành nhân cách con người mới. Hình thức tổ chức, không gian tổ chức hoạt động đọc cho học sinh lớp Một cũng góp phần không nhỏ cho hiệu quả hoạt động đọc. Trong quá trình dạy học, ngoài việc học sinh đọc sách trên lớp, trong thư viện, tôi thường cho học sinh đọc sách tại thư viện xanh của trường. Việc làm này tạo không khí thoải mái, tăng hứng thú cho học sinh, học sinh được tham gia học tập trong nhóm phát huy được phẩm chất và năng lực, tính chủ động sáng tạo của bản thân. Học sinh đọc sách tại “Thư viện xanh” của trường III. 3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến Các giải pháp có thể áp dụng với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng học sinh (đặc biệt cả học sinh yếu ở tất cả các khối lớp). Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các giải pháp trên và nhận thấy học sinh phát âm chuẩn Tiếng Việt hơn. Ban đầu có tới 5 em phát âm sai( l – n, tr - ch, s – x...) 6 em đọc sai dấu thanh( ngã – sắc) trên tổng số 23 học sinh của lớp. Nhưng đến nay còn 2 em sai phát âm n/ l và 3 em sai về dấu thanh. Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn nhưng là một tín hiệu mừng, chứng tỏ những giải pháp tôi áp dụng là có hiệu quả. Chất lượng đại trà của lớp và kết quả các bài đọc của học sinh có nhiều tiến bộ. Từ chỗ các em ngại giao tiếp, kém tự tin, rụt rè, nhút nhát giờ đây nhiều em đã tiến bộ rõ rệt thông qua việc tự đánh giá bản thân mình và nhận xét đánh giá bạn. Phụ huynh học sinh phấn khởi về kết quả học tập, khả năng giao tiếp của con em mình. III. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến Việc tìm ra được biện pháp giúp học sinh lớp Một luyện đọc đúng khi học môn Tiếng Việt một cách thích hợp, kịp thời sẽ góp phần nâng cao chất lượng học Tiếng Việt cho học sinh. Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để học tập các môn học khác, giúp phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, mở rộng vốn từ không tốn kém kinh phí mà vẫn nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Do kết quả học tập của của học sinh được nâng cao nên các em không còn tự ti về bản thân. Học sinh mạnh dạn hơn, sôi nổi hơn trong giờ học và trong giao tiếp. Cũng nhờ kết quả học tập tiến bộ các em sẽ hăng say học tập, hứng thú khi đến trường, gần gũi với thực tế và tin yêu cuộc sống nhiều hơn. Qua quá trình nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy và thực tế giảng dạy tại lớp chủ nhiệm, bản thân tôi đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích và lý thú cho nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thực tế giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học và thực hiện dạy Tiếng Việt lớp Một theo chương trình GDPT mới 2018. Người giáo viên cần phải tăng cường nghiên cứu nội dung chương trình, nghiên cứu kĩ bài học, sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học hiệu quả, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy họ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_luyen_doc_dung_cho_ho.docx

