Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 4

docx 15 trang Mịch Hương 02/09/2025 90
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh Lớp 4
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: 
 “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4.”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 
Giáo dục kĩ năng sống.
3. Tác giả 
Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Anh
Ngày tháng năm sinh: 06/12/1998
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Thanh Lương
Điện thoại: 0376 384 928 
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Thanh Lương, Huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng.
Địa chỉ: Thanh Lương - Vĩnh Bảo - Hải Phòng
II. Mô tả giải pháp đã biết
Nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng 4.0, một cuộc cách mạng có tốc độ phát triển nhanh chưa từng có trong lịch sử, có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là ngành giáo dục. Nền giáo dục nước nhà sẽ có thay đổi một cách sâu rộng từ môi trường giáo dục, vai trò của người làm công tác giáo dục đến việc tiếp thu kiến thức của người được giáo dục. Trong đó, giáo dục Tiểu học được xem là cấp học nền tảng và giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự nghiệp phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị tiếp tục bậc học tiếp theo. 
Trong các kỹ năng sống thì kỹ năng giao tiếp chiếm vị trí quan trọng trong cuộc sống thực tiễn, hoạt động lao động của con người. Kỹ năng giao tiếp không phải do bẩm sinh, di truyền mà có được mà nó được hình thành và phát triển trong quá trình sống, qua hoạt động, qua trải nghiệm, tập luyện, rèn luyện. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì cần thiết phải phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh.
Nội dung của giáo dục tiểu học là tập trung vào các môn văn hóa, giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống. trong những nội dung đó giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh chiếm vị trí vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của giáo dục tiểu học.
1. Ưu điểm
Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng vô cùng quan trọng trong việc giảng dạy giáo dục kỹ năng sống tại các nhà trường hiện nay. Giáo dục kỹ năng giao tiếp trong các môn học không những là cầu nối gắn kết mối quan hệ giữa mọi người mà kỹ năng giao tiếp còn là chìa khóa dẫn lối thành công trong mọi lĩnh vực. Đối với mỗi cá nhân học sinh nói chung nếu có kỹ năng giao tiếp đó là một lợi thế để thể hiện bản thân nắm bắt cơ hội trong từng hoạt động học tập cũng như hoạt động vui chơi. Đặc biệt đối với các em học sinh tiểu học đang dần hình thành nhân cách lại càng cực kỳ quan trọng bởi kỹ năng giao tiếp không chỉ góp phần nâng cao khả năng tiếp cận kiến thức mà còn mở ra cho các em khả năng nắm bắt các cơ hội đến với mình cả trong hiện tại và trong tương lai. Vì vậy để giáo dục kỹ năng giao tiếp tốt trong các môn học giúp cho học sinh biết nói đủ câu khi trả lời câu hỏi học tập khi trò chuyện với bạn cùng lớp với thầy cô giáo. Học sinh biết xử lý tình huống tự tin giao tiếp trao đổi với bạn tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp của trường. Tôi khẳng định rằng rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh là cực kỳ quan trọng là nhân tố số một quyết định chất lượng giáo dục toàn diện về đạo đức trí tuệ thẩm mỹ thể chất và các kỹ năng sống cơ bản của học sinh. Ngôn ngữ giao tiếp là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội 
2. Nhược điểm
Một số học sinh còn mặc cảm, tự ti, không dám hòa mình vào các hoạt động chung của lớp, sử dụng ngôn từ, cách xưng hô chưa phù hợp, có những cử chỉ, hành vi thiếu lịch sự. Một số phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng giao tiếp cho con em mình, còn nuông chiều, phó mặc cho nhà trường; thậm chí có phụ huynh còn bất lực trước con cái. Số ít phụ huynh chưa có phương pháp giáo dục con em khoa học, thiên về bạo lực, lớn tiếng với con cái.
 Nhiều em chưa biết cách giao tiếp. Các em rất sợ nói trước công chúng,sợ phải giao tiếp với người khác, nhất là với những người mới tiếp xúc ban đầu. Khả năng giao tiếp của các em còn hạn chế do thiếu kĩ năng nói và từ vựng: Học sinh giao tiếp không giỏi một phần bởi không biết nói gì, phần khác sợ bản thân nói sai nên không dám nói. Tình trạng này để lâu có thể khiến học sinh rất ngại khi trò chuyện với người khác, trong lớp hoặc trong các buổi ngoại khóa chỉ ngồi im lặng và về lâu dài sẽ mất đi sự năng động vốn có của tuổi mới lớn. Đó cũng là băn khoăn suy nghĩ của bản thân tôi làm thế nào để rèn các em học sinh tự tin mạnh dạn và giao tiếp hiệu quả hơn. Xuất phát từ những tồn tại của những giải pháp đã biết, tôi đã mạnh dạn đưa ra và áp dụng “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4”.
III. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến
III.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến
1. Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức về vai trò của giáo viên đối với việc rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Trong thời đại công nghiệp 4.0 vai trò giáo viên ngày càng trở nên phức tạp, nơi mà tri thức hầu như vô tận. Thực tế có rất nhiều gia đình bố mẹ bận công việc cứ giao cho con một chiếc điện thoại hay máy tính bảng là yên tâm con không quấy nhiễu, bố mẹ thoải mái làm việc của mình. Chính vì lẽ đó mà ngày nay có rất nhiều trẻ em không thích tiếp xúc với mọi người xung quanh, ít có các kỹ năng giao tiếp tối thiểu hàng ngày. Thậm chí có những em học sinh khi bị đi lạc đã không biết cách hỏi thăm đường để về nhà. Hay có rất nhiều trường hợp nhiều trẻ em đang độ tuổi học sinh mắc phải chứng bệnh tự kỷ, tăng động giảm chú ý khi mà hàng ngày các em không được người lớn quan tâm, hầu hết các em đều thiếu các kỹ năng giao tiếp hàng ngày, thiếu tự tin, thiếu trách nhiệm.
Chính vì nhận thức rõ tầm quan trọng của các kỹ năng giao tiếp trong xu thế hiện nay, bản thân tôi đã không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu về các kỹ năng giao tiếp cần thiết. Đồng thời tôi cũng tìm tòi, tham khảo, ứng dụng các biện pháp để rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Là một giáo viên chủ nhiệm tôi thường xuyên tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho phụ huynh và học sinh về các kỹ năng giao tiếp, tầm quan trọng của giao tiếp trong cuộc sống và sự cần thiết phải giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh Tiểu học.
Trước tiên giáo viên cần giúp cho phụ huynh, học sinh hiểu được: Kĩ năng giao tiếp là những kĩ năng tâm lý-xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại Rèn kĩ năng giao tiếp đơn giản là giúp học sinh có cơ hội giao lưu với bạn bè, thầy cô giáo, với xã hội xung quanh mình và có được khả năng ứng phó một cách linh hoạt nhưng đem lại những thuận lợi trong cuộc sống. Dạy kỹ năng giao tiếp cho học sinh nhằm rèn luyện cho các em có thói quen năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Sau đó giáo viên phải giúp cho phụ huynh, học sinh hiểu rõ: Kỹ năng giao tiếp không phải là cái có sẵn, con người không phải sinh ra đã có kỹ năng giao tiếp tốt. Mà kỹ năng giao tiếp phải được rèn luyện và hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những hoạt động, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có.
Việc làm này không phải ngày một ngày hai là có thể xong mà phải làm thường xuyên như: Trao đổi trong các lần họp phụ huynh cả lớp đầu năm, cuối kỳ, cuối năm. Cũng có những phụ huynh bận công việc không tham gia hoặc cũng có những phụ huynh không phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, lúc đó bản thân tôi phải gặp gỡ trực tiếp, điện thoại để động viên, trao đổi và khai thông tư tưởng cho phụ huynh, Từ đó giáo viên, phụ huynh, học sinh có thể làm tốt công tác rèn kỹ năng giao tiếp cho các em. 
2. Giải pháp 2: Tăng cường tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học các môn học giúp học sinh rèn kĩ năng giao tiếp.
Ở bậc tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng các môn học có chứa nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp rất nhiều, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học,.... Nhiệm vụ của người giáo viên là phải tự giác, tích cực thực hiện giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh qua mỗi giờ học trên lớp. Thông qua các tiết học trên lớp giáo viên giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Vậy muốn thông qua hoạt động dạy học mà hướng tới rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh thì người giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động học tập làm sao để phát huy được sự tích cực, chủ động, mạnh dạn, tự tin của học sinh trong quá trình học tập. Vậy thì hoạt động nhóm là một hoạt động nếu người giáo viên tổ chức khéo léo sẽ phát huy được các ưu thế mà nó mang lại trong quá trình dạy học. Nó không chỉ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động mà còn là sân chơi giúp cho học sinh thể hiện bản thân, học hỏi bạn bè, khả năng hợp tác, làm việc nhóm.
Từ xa xưa ông cha ta đã từng nói: “Học thày không tày học bạn” đây mãi là chân lý đúng đắn. Chính vì vậy mà người giáo viên muốn giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh cũng phải nắm bắt tốt cơ hội thông qua phương châm: “Bạn và tôi” để xây dựng cách thức giao tiếp thân thiện trong nhóm. Tổ chức nhóm là nhằm tạo cơ hội cho mọi đối tượng được nói, được trình bày miệng trước tổ, được mạnh dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề nào đó trước tập thể. Từ đó, giúp các em rèn kỹ năng giao tiếp, biểu hiện thái độ cử chỉ khi trình bày để tăng thêm sức biểu cảm, tăng sức thuyết phục của vấn đề mà mình trình bày, cũng nhờ đó các em tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn hơn khi nói trước đông người. 
Ví dụ: Trong chương trình lớp 4, ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ năng giao tiếp xã hội cho các em như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Tôi chỉ gợi mở, sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Các bài học này được thiết kế cụ thể thông qua các tình huống giao tiếp. Giáo viên chỉ khuyến khích, sau đó để học sinh tự nói một cách tự nhiên, hoàn toàn không áp đặt hoặc hạn chế. Trong tiết Nói và nghe, tôi luôn tổ chức cho học sinh thảo luận vấn đề trong bài yêu cầu hoặc kể lại đoạn chuyện, câu chuyện trong nhóm, sau đó kể trước lớp, giúp học sinh rèn kĩ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông, từ đó học sinh nói năng ngày càng lưu loát hơn.
Sau khi HS kể xong, tôi mời các em nhận xét, trao đổi về nội dung ý nghĩa câu chuyện, nhận xét về cách thể hiện tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện thông qua cử chỉ, điệu bộ, lời kể của bạn để giúp các em tạo cảm giác tự tin khi trao đổi, cách giải quyết một vấn đề có hiệu quả nhất, đặc biệt là giúp các em rèn luyện kỹ năng thể hiện cảm xúc của mình thông qua ngôn ngữ nói và ngôn ngữ hình thể. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho họcsinh qua môn Tiếng Việt, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt độngnhóm, phương pháp hỏi đáp,Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành kĩ năng giao tiếp một cách triệt để.
 Hình ảnh học sinh thảo luận chia sẻ trước lớp trong tiết Nói và nghe.
Trong phân môn Viết thể hiện, bộc lộ rõ nét nhất kỹ năng giao tiếp của học sinh thông qua câu văn, đoạn văn. Thông thường, những em giao tiếp tốt thì câu, đoạn văn gãy gọn, trôi chảy và ngược lại. Đối với những bài này, tôi ghi hẳn những câu văn (có khi chưa thành câu) còn sai lên bảng sửa sai ngay. Trong quá trình rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh, tất cả các bài làm văn của học sinh tôi đều chấm rất kỹ, đọc nhiều lần, chữa lỗi bằng mực đỏ. Giờ trả bài cho học sinh, ngoài các bước thông thường như những giáo viên khác, tôi còn tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm yêu cầu học sinh đổi chéo bài, đọc kỹ bài làm của bạn nhiều lần, phát hiện những câu chưa hoàn chỉnh. Giáo viên cùng với học sinh nhận xét, đưa ra phương án sửa lỗi để học sinh biết được vì sao vậy để lần sau không lặp lại. Đồng thời, tôi yêu cầu học sinh viết lại bài văn, khen ngợi biểu dương những học sinh tiến bộ, có câu cú gãy gọn, lời văn phù hợp ngữ cảnh.
- Trong các tiết Toán, Khoa học, Lịch sử - Địa lý... khi học sinh đánh giá, nhận xét bài làm hoặc câu trả lời của bạn và đưa ra ý kiến hoặc cách làm của mình, các em đã được rèn kĩ năng giao tiếp một cách đúng mực và kĩ năng chia sẻ. Chẳng hạn: Khi chia sẻ bài “ Đây là bài làm của tớ mời các bạn nhận xét”
Bạn làm sai, nhận xét là: "Theo tớ, cách giải thế này" chứ không nói là:"Cậu làm sai rồi" hoặc nhận xét một cách không tế nhị. 
- Trong các bài học Đạo đức, thông qua hoạt động thảo luận nhóm, đóng vai xử lý tình huống và thực hiện đóng vai xử lý tình huống trước lớp. Các em đã được tham gia ý kiến của mình một cách tự tin thoải mái. Thông qua hoạt động giáo dục đạo đức các em biết gần gũi, quan tâm chia sẻ và thân thiện với bạn, biết giúp đỡ bạn khi cần; từ đó lớp tạo ra một lớp học đoàn kết và thân thiện, các em giao tiếp với nhau thoải mái và vui vẻ với nhau hơn. 
Hình ảnh học sinh lớp 4A thảo luận nhóm trong tiết Đạo đức.
Học sinh tự tin chia sẻ trong giờ Lịch sử - Địa lí.
Khi dạy Khoa học ở lớp 4, tôi thường tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, với nhiệm vụ mỗi em trong nhóm cùng thảo luận bàn bạc và đi đến thống nhất một nội dung mà giáo viên yêu cầu thảo luận. Cử một bạn ghi vào bảng nhóm kết quả đã thống nhất. Khi các nhóm đã thực hiện xong nhiệm vụ, các nhóm trình bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách trình bày của nhóm bạn. Kết quả tham gia các hoạt động nhóm, các em có thể rèn luyện cho mìnhcách nói năng rõ ràng, mạch lạc, tự tin. Khi hoạt động cả lớp, giáo viên đưa ra những câu hỏi nhẹ nhàng, hợp lí để học sinh luôn cảm thấy tiết học nhẹ nhàng, thân thiện cởi mở không gò bó, các em có cảm giác thoải mái, tiết học thực sự hứng thú, tạo nên tiết học sinh động mang lại hiệu quả cao hơn. Mỗi khi báo cáo kết quả, tôi chú trọng rèn học sinh ý thức tôn trọng và lắng nghe ý kiến của bạn, của nhóm khác, tự tin và tự giác cùng trao đổi, bàn bạc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm, dám nói ra suy nghĩ hoặc bảo vệ ý kiến của nhóm mình trước tập thể, trước các nhóm khác một cách đúng đắn, theo hướng tích cực. Qua học nhóm các em ngày một mạnh dạn hơn, nói năng tự tin hơn.
Từ việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo nhóm như vậy mà học sinh lớp tôi luôn mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân mình trước đông người, biết cách tôn trọng ý kiến bạn bè, giúp đỡ nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong học tập, Ngoài ra học sinh còn biết yêu thương, đoàn kết, cùng nhau tiến bộ.
3. Giải pháp 3: Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua các hoạt động tập thể.
Hoạt đông tập thể là một hoạt động cần thiết. Vì thế tôi chú ý rèn kĩ năng giao tiếp cho HS trong cả các hoạt động tập thể, bao gồm: Hoạt động ngoài giờ lên lớp,sinh hoạt lớp, sinh hoạt đầu giờ, hoạt động Đội. Trong các hoạt động này, HS là người thực hiện. Ngay những ngày đầu tiên khi nhận lớp tôi đã phát động phong trào “Nói lời hay, làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như: biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi;biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà; vui vẻ hòa nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn tuổi, biết vỗ tay khi được xem biểu diễn hoặc nghe nói chuyện dưới cờ trong các buổi lễ, buổi diễn thuyết,Tôi cùng sinh hoạt với các em, lắng nghe ý kiến của các em. Tôi hướng dẫn các em giao tiếp một cách lịch sự, không chỉ chích nhau trong tiết sinh hoạt mà chỉ khuyên các bạn cố gắng khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu điểmđể thực hiện một cách tốt hơn trong tuần tiếp theo. Đồng thời khuyên các em biết lắng nghe ý kiến của nhau, giao tiếp với nhau cởi mở, thân thiện, gọi “bạn”,xưng “tôi”. 
Tôi cũng hướng dẫn các em trong ban cán sự lớp, ban chỉ huy chi đội luôn làm mới các tiết sinh hoạt lớp để làm tăng sức hấp dẫn, lôi cuốn của tiếthọc này. Cụ thể là trong mỗi tháng, các tiết sinh hoạt đều có một chủ đề riêng. Chẳng hạn, chủ điểm của tháng 11 là “Biết ơn thầy cô giáo”. Trong tiết sinh hoạt đầu tiên của tháng, sau khi tổng kết xong các hoạt động của tuần trước tôi cho các tổ, nhóm đăng kí các tiết mục văn nghệ với chủ đề “Ngàn lời tri ân”. Các em rất hào hứng tham gia. Tôi thấy các em còn biết bàn bạc trong tổ, trong nhóm; trao đổi với nhau xem nên chọn bài hát, bài thơ nào?...Rồi các em tập luyện với nhau trong giờ ra chơi hoặc cuối buổi học. Các em cũng mạnh dạn hỏi tôi về ý tưởng cũng như các động tác múa phụ họa cho bài hát của nhóm mình và nhờ tôi góp ý. Sau hai tuần cho các em chuẩn bị và tập luyện, tôi tổ chức cho các tổ, nhóm thi với nhau trong tiết sinh hoạt lớp để chọn ra tiết mục hay nhất tham gia thi cấp trường. 
Kết quả, tiết mục kịch múa bài “Bài học đầu tiên – Bài ca lớn lên cùng đất nước” của lớp được chọn để tham gia thi cấp trường. Với sự tự tin cùng với năng lực của mình, các em đã giành được giải Nhất và được bầu chọn là một trong các tiết mục biểu diễn vào ngày lễ kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11 ý nghĩa. Sau buổi lễ đó, nhiều em tỏ ra rất mạnh dạn tự tin trong các hoạt động của lớp mặc dù trước đó còn rụt rè, nhút nhát như em: Nguyễn Ngọc Anh, Vũ Uyên Nhi, Đỗ Thảo Nhi, Nguyễn Thái Bảo,.
Tôi cũng luôn chú trọng rèn kĩ năng giao tiếp cho các em qua những tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nhân kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 -12 tôi đã cho các em tìm hiểu về truyền thống của quân đội ta. Các em thi nhau tìm hiểu qua sách, báo, internet; có em thì hỏi ông bà, cha mẹnhững việc có liên quan đến sự hình thành, phát triển và những chiến công vang dội của quân đội ta. Tôi đã tạo điều kiện cho các em thể hiện những hiểu biết của mình qua phần thi Hái hoa dân chủ. Tôi thấy các em trả lời câu hỏi của mình rất rõ ràng, mạch lạc pha lẫn cả niềm tự hào trong đó. Tiết học hôm đó không chỉ giáo dục cho các em về truyền thống của quân đội ta mà còn giúp các em thể hiện được những hiểu biết, những ước mơ đồng thời thấy được cả trách nhiệm của mình viết tiếp những trang lịch sử vẻ vang của dân tộc.
 Hoạt động Đội là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh lớp 4 vì có những em vừa được kết nạp Đội ở cuối năm lớp 3. Vào Đội, các em được giao lưu, học hỏi với các đội viên khác trong trường, được hoạt động chung,được tham gia các phong trào, các cuộc thi do Đội tổ chức. Chính những hoạt động đó đã giúp các em thấy mình dường như lớn lên, trưởng thành hơn. Để rèn cho các em những kĩ năng giao tiếp qua hoạt động Đội, tôi đã thường xuyên bám sát các kế hoạch hoạt động của chi đội lớp mình cũng như tham khảo hoạt động chung của Liên đội. Cứ cuối tuần, tôi lại dự họp cùng cán bộ lớp và cán bộ chi đội để đóng góp ý kiến hoặc định hướng cho các em những hoạt động trong tuần tới. Tôi luôn khuyến khích các em tìm đọc rồi kể trước tập thể những câu chuyện về tấm gương đội viên, thanh thiếu niên dũng cảm. Các em say sưa lắm! Tôi rất vui vì qua việc làm này đã góp phần bồi dưỡng cho cácem lòng tự hào về Đội, tự hào về truyền thống yêu nước của các thế hệ đi trước đồng thời nó còn có tác dụng rất nhiều trong việc rèn kĩ năng giao tiếp cho các em. Tôi khuyến khích các em tham gia các hoạt động của Liên đội tổ chức như: thi văn nghệ, thi phụ trách sao giỏi. Qua các hoạt động Đội, các em được giao tiếp với các anh chị phụ trách Đội, các đội viên, các Sao, giao tiếp với các bạn trong Ban chỉ huy Liên đội, tạo cho các em các mối quan hệ đa dạng hơn; giáo dục các em biết giao tiếp phù hợp trong các tình huống của môi trường mới mà người đội viên tham gia.Thông qua các hoạt động Đội, kĩ năng giao tiếp của các em sẽ tiến bộ hơn, lớp có nhiều đội viên mạnh dạn, nói năng hoạt bát, có sức thuyết phục tập thể thì đó là tấm gương để các học sinh khác noi theo. Và chắc chắn, đó cũng là một trong những động lực để các bạn chưa là đội viên sẽ cố gắng rèn luyện để được đứng trong hàng ngũ của Đội giống như bạn mình. 
Hoạt động vui chơi cũng chiếm nhiều thời gian của các em khi tới trường. Đặc biệt trong giờ ra chơi các em giao tiếp với nha

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_giao_tiep.docx