Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán Lớp 4
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán Lớp 4
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 4,Trường Tiểu học Vĩnh Phong - Tiền Phong. 3. Tác giả: - Họ và tên: Ngô Thị Kim Huyền - Ngày tháng năm sinh: 05/06/1979 - Chức vụ: Giáo viên – Trường Tiểu học Vĩnh Phong-Tiền Phong - Điện thoại: 0766492216 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: - Tên đơn vị: Trường Tiểu học Vĩnh Phong - Tiền Phong - Địa chỉ: Tiền Phong – Vĩnh bảo – Hải Phòng - Điện thoại : 0223584300 I. TÓM TẮT GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT 1. Giải pháp đã biết Các môn học trong chương trình của bậc tiểu học nói chung, môn Toán đóng vai trò rất quan trọng. Môn Toán là “chìa khóa” mở cửa cho tất cả các ngành khoa học khác, là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Học môn Toán giúp HS phát triển năng lực, tư duy, trí thông minh, sáng tạo, thói quen làm việc khoa học, rèn suy nghĩ độc lập, tự tin, ham học hỏi, phát triển toàn diện, góp phần giáo dục tình cảm, trách nhiệm của các thế hệ HS đối với quê hương, đất nước. Song, để tiếp thu, lĩnh hội một cách tốt nhất các mạch kiến thức môn Toán đặc biệt là Toán lớp 4 – năm học có nhiều lượng kiến thức Toán khó đòi hỏi tư duy hơn các năm học trước thì trước tiên HS phải yêu thích môn học, tích cực trong mọi hoạt động học tập. Hiểu được điều đó nên nhiều năm học trước tôi luôn tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học để HS có thể lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất: - Nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo kiến thức chính xác, có hệ thống để từ đó có phương pháp giảng dạy thích hợp. Cụ thể hóa bài dạy theo các bước: + Bước 1: Xác định rõ được mục đích, nhiệm vụ nhận thức của bài học. + Bước 2: Chia mục tiêu thành các nội dung. + Bước 3: Với mỗi nội dung, nghiên cứu các phương pháp, hình thức tổ chức học tập phù hợp. + Bước 4: Tổ chức cho HS học tập để tìm hiểu nội dung kiến thức bài học và cho HS báo cáo kết quả. + Bước 5: GV cùng với HS đánh giá kết quả và chốt nội dung kiến thức. - Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp giúp HS giải tốt dạng toán có lời văn: dạng toán Trung bình cộng; Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó; Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đóbằng cách hướng dẫn HS phân tích đề toán, cách giải các dạng toán. - Vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực, phát huy năng lực của HS, sử dụng phương pháp đàm thoại, hợp tác nhóm nhỏ, tăng cường phương pháp trực quan, giúp HS mạnh dạn, tự tin trong học tập. - Sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong phần khởi động hoặc trong tiết ôn tập như trò chơi Ô số bí mật, Rung chuông vàng 2. Ưu điểm: - Với các giải pháp trên, bản thân tôi thấy đa số HS có ý thức học tập, tích cực tham gia vào các hoạt động, nắm được kiến thức môn Toán. - HS có ý thức chuẩn bị bài, có ý thức tự học, nghiên cứu tài liệu, mạnh dạn thảo luận nhóm, chia sẻ trước lớp để lĩnh hội kiến thức. 3. Nhược điểm a. Giáo viên: - GV đã có ý thức đổi mới PPDH, tuy nhiên mới chỉ chú ý tới các phương pháp truyền thụ kiến thức, chú trọng việc hướng dẫn HS cách làm bài, tính toán, cách giải bài toán với mục đích luyện kĩ năng để làm bài tốt mà chưa chú ý tới tình cảm, hứng thú, tích cực thực sự của HS. - Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học trong tất cả các tiết dạy, khi giảng dạy đôi lúc vẫn còn lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa nên giảng dạy còn rập khuôn, máy móc - Phương pháp dạy học còn mang nặng phương pháp truyền thống, chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của HS. Chủ yếu là GV giảng giải, thuyết trình, HS nghe giảng, luyện làm nhiều bài tập, chưa cụ thể hóa nội dung dạy học theo đối tượng HS. - Hình thức dạy học còn đơn điệu chưa gây được hứng thú cho HS. Các quy tắc công thức đều được thầy đưa ra và HS có nhiệm vụ phải ghi nhớ; dạy học theo kiểu áp nên HS tiếp thu kiến thức một cách thụ động, hạn chế trình độ nhận thức, tư duy, sáng tạo, khó thích ứng với yêu cầu học tập cao hơn ở các lớp trên. - GV chưa chú ý dạy phân hóa đối tượng, dẫn đến tình trạng một số học sinh chưa tích cực hoặc tiếp thu chưa tốt chưa hiểu được hết nội dung bài. b. Học sinh: - Một số HS mới chỉ dừng ở mức độ biết - hiểu – luyện tập - ghi nhớ, chưa tích cực, say mê học tập vì chủ yếu các bài học chỉ dừng ở việc phân tích ngữ liệu trong sách giáo khoa và luyện tập thực hành nhiều lần. - HS chưa tìm thấy hứng thú học Toán, ngại học Toán, thấy “Học Toán thật là khó”, chưa tích cực tư duy, suy nghĩ, tìm tòi trong quá trình học. Có những HS chăm học, thấy được nhiệm vụ phải học tập nhưng chưa yêu thích môn học, học chỉ để lấy điểm cao. Cho nên sau khi học xong bài, các em chỉ nắm được lượng kiến thức thầy giảng theo kiểu ghi nhớ máy móc, làm bài theo các bước, không thể giải thích được các bước giải, rất nhanh quên, kỹ năng tính toán hạn chế. - HS được thảo luận, chia sẻ theo nhóm tuy nhiên một số HS chưa tích cực. Từ những hạn chế trên tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Làm thế nào để HS hứng thú, tự giác, tích cực học tập, sôi nổi, vui vẻ, háo hức. Bởi chỉ khi có hứng thú, tích cực học tập các em mới phát huy năng lực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức, để giờ dạy - học Toán có hiệu quả cao, hiểu sâu, rèn luyện tốt các kĩ năng của bài học. Với suy nghĩ đó, trong quá trình dạy học môn Toán ở lớp 4, tôi đã đi sâu vào tìm tòi, thực nghiệm và rút ra được “Một số biện pháp tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán lớp 4”. II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN II.0 NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT 1. Thay đổi nhận thức của người dạy, người học, mạnh dạn đổi mới phương pháp. - Muốn các em tích cực, có hứng thú, học tốt môn Toán thì GV phải là người yêu thích môn Toán. GV tâm huyết với nghề mới không giảng dạy đối phó, chịu khó tìm tòi, học hỏi để tìm ra phương pháp truyền đạt đến HS một cách tối ưu nhất. HS sẽ hứng thú, tích cực học tập, coi việc học là của mình, chủ động sáng tạo qua đó hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn, biết vận dụng, linh hoạt ứng dụng các kiến thức mình đã học. HS hứng thú, tích cực học Toán sẽ tự nảy sinh niềm đam mê Toán học, phát huy được năng lực Toán học đặc thù như năng lực tư duy và lập luận toán học; năng lực mô hình hóa toán học; năng lực giải quyết vấn đề toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán. - GV phải nghiên cứu nắm được toàn bộ chương trình môn Toán lớp 4, nắm vững kiến thức Toán trong sách giáo khoa; chuẩn kiến thức kĩ năng. Có đầy đủ đồ dùng dạy học ở các tiết học. Mạnh dạn đổi mới phương pháp, áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy: Kĩ thuật động não, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật KWL, kĩ thuật đọc tích cực, kĩ thuật viết tích cực, kĩ thuật trình bày 1 phút. Thường xuyên đưa phần củng cố kiến thức bằng các “Trò chơi học Toán” và linh hoạt giúp HS khai thác kiến thức mới hấp dẫn, khoa học. Đây cũng là cách giúp các em ghi nhớ lâu những qui tắc, vận dụng giải các bài tập đã học để khi lên lớp trên GV nhắc tới những dạng bài tập đó các em nhớ, vận dụng làm được ngay. Như vậy sẽ tránh được những em HS lên lớp trên mà kiến thức Toán lớp dưới bị hỏng. - Khi giảng dạy kiến thức mới GV có thể tiến hành theo các bước: Tự phát hiện - Tự giải quyết - Tự chiếm lĩnh. Linh hoạt tổ chức tiết học theo hoạt động trải nghiệm, khai thác vốn hiểu biết thực tế của bản thân HS, khám phá, lĩnh hội, khắc sâu, mở rộng; liên hệ giữa kiến thức cũ với kiến thức mới, giữa kiến thức mà các em học được với trải nghiệm thực tế “học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn”. - Thiết kế bài giảng luôn xác định rõ mục tiêu cần đạt về kiến thức – kĩ năng, năng lực, phẩm chất. Thiết kế các hoạt động học tập, các dạng câu hỏi, bài tập nhằm phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng với các hình thức đa dạng, phong phú phù hợp với bài học, với đối tượng HS, với điều kiện của trường, lớp - Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực. Một số tiết linh hoạt điều chỉnh nội dung bài (dạy học theo chủ đề, tích hợp kiến thức) phát huy tính tích cực, sáng tạo cho HS. 2. Dạy học phân hóa theo đối tượng HS. - Trong quỹ thời gian có hạn, mặt bằng trình độ HS không đồng đều, để giúp HS hứng thú, phát huy tính tích cực trong giờ học là dạy học phân hóa theo đối tượng HS. Ví dụ: Dạy bài Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó (Toán 4/147) Đầu tiên tôi chia lớp thành 3 nhóm với lực học tốt, hoàn thành, cần cố gắng rồi tiến hành bài dạy. - Sau phần làm việc chung với cả lớp: Cho HS đọc đề toán, tóm tắt, giao nhiệm vụ thảo luận tôi đến từng nhóm làm việc. - Với nhóm học chưa tốt tôi gợi ý tương đối cụ thể: Đọc đề lần 2, xác định cái đã cho, cái cần tìm, giúp HS hiểu tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, hướng dẫn HS suy nghĩ (có tất cả mấy phần bằng nhau, muốn tìm một phần ta làm thế nào? Vậy số bé bằng bao nhiêu? Muốn tìm số lớn ta làm thế nào?...) - Với học sinh hoàn thành: Giáo viên chỉ giúp HS hiểu tóm tắt đề toán (bằng sơ đồ đoạn thẳng) mà không gợi ý gì nữa để các em tự làm. - Với học sinh tốt: Các em tự giải, không cần sự giúp đỡ của giáo viên. Ngoài nhiệm vụ tự giải bài toán, tôi yêu cầu HS tự đặt một vấn đề toán khác về tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó, có hình vẽ tóm tắt và tự giải bài toán. -> Dạy học phân hóa đối tượng đã tác động đến từng HS trong cả lớp, làm cho em nào cũng được học tập đúng sức của mình. Lớp học trở nên sinh động, mọi HS đều hứng thú, hoạt động tích cực, tự giác theo hướng dẫn của GV. 3. Sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn và kĩ thuật mảnh ghép. - Dạy học môn Toán trên thực tế ít GV thực hiện Kĩ thuật khăn trải bàn hay Kĩ thuật mảnh ghép. Tuy nhiên với một số bài học nội dung yêu cầu hình thành tri thức mới. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả của nhiều HS khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ, yêu cầu tính hợp tác cao giữa các thành viên, tôi mạnh dạn áp dụng hai kĩ thuật này vào dạy học với mục tiêu tạo hứng thú, phát huy tính tích cực, mỗi HS đều phải tìm cách giải quyết tình huống có vấn đề GV đưa ra, mạnh dạn, chủ động, tích cực chiếm lĩnh kiến thức. * Kĩ thuật Khăn trải bàn. - Cách tiến hành kĩ thuật “khăn trải bàn”. + Hoạt động theo nhóm (4 người/nhóm). Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa. Tập trung vào câu hỏi (chủ đề). + Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về một câu hỏi, chủ đề). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút. Khi mọi người đều đã xong, chia sẻ và thảo luận các câu trả lời. Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa. - Ví dụ: Dạy bài So sánh hai phân số khác mẫu số (Toán 4). Tôi đặt vấn đề Vận dụng kiến thức đã học, so sánh 2 phân số và . Học sinh triển khai thực hiện theo kĩ thuật khăn trải bàn, mỗi HS tìm cách làm, có HS sẽ thực hiện theo cách chia băng giấy, có HS thực hiện theo cách quy đồng mẫu số hai phân số Sau đó HS trao đổi, thống nhất ý kiến chung của cả nhóm, báo cáo kết quả. * Kĩ thuật mảnh ghép. - Kĩ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm: Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề); Kích thích sự tham gia tích cực của HS. Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2). - Với kĩ thuật mảnh ghép sử dụng được trong một số tiết dạy học theo chủ đề. Ví dụ: Trong chương trình Toán lớp 4, điều chỉnh dạy học theo chủ đề Dấu hiệu chia hết cho 2,5,9,3 GV thiết kế tiết dạy theo kĩ thuật mảnh ghép. GV không áp đặt dấu hiệu chia hết để HS học thuộc lòng, máy móc mà hướng dẫn các em tự tìm hiểu, chia sẻ, lĩnh hội kiến thức trong nhóm chuyên gia. Có thể chia lớp thành 6 nhóm: nhóm 1,2,3 thảo luận trao đổi nhận biết dấu hiệu chia hết cho 2,5. Nhóm 4,5,6 trao đổi dấu hiệu chia hết cho 3,9. HS các nhóm thảo luận cách làm. GV quan sát, hỗ trợ. Hết vòng 1 HS các nhóm sẽ ghép nhóm 1 - 4; 2 – 5; 3 – 6 là nhóm các mảnh ghép để kết hợp nội dung phân tích giúp HS cả lớp sẽ nắm vững dấu hiệu chia hết cho 2,3,5,9. -> Với kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật mảnh ghép sẽ tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh làm việc theo nhóm, hào hứng học tập, phát triển năng lực tự học, năng lực hợp tác, mạnh dạn chia sẻ. 4. Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Toán. - Việc sử dụng BĐTD không còn xa lạ đối với việc học môn Toán. BĐTD giúp HS phát triển hết khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khả năng tư duy. Tuy nhiên GV thường sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức. Còn tôi mạnh dạn sử dụng BĐTD ngay trong quá trình dạy học bài mới. GV thay vì gạch chân đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì GV hoặc HS sử dụng BĐTD để thể hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học trực quan mà hiệu quả, HS sẽ dễ ghi nhớ hơn đối với kiến thức Toán học. - Khi thực hiện dạy học bằng cách lập BĐTD tôi làm qua 4 bước như sau: + Bước 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. + Bước 2: HS hoặc đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. + Bước 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. + Bước 4: Củng cố kiến thức bằng BĐTD. Ví dụ: dạy bài Góc nhọn, góc tù, góc bẹt( trang 49 SGK Toán 4) Nếu GV sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì nội dung dàn trải, hết nội dung này đến nội dung khác, HS dễ bị nhàm chán khi hình thức học tập bị lặp lại. Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học hôm nay, tôi có thể tổ chức cho HS làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, thực hiện yêu cầu trên phiếu bài tập, học sinh kết hợp đồ dùng trực quan đo các góc nêu nội dung chính theo BĐTD. Cuối cùng GV cùng HS hoàn thiện được BĐTD kiến thức theo ý muốn của mình. -> Sử dụng BĐTD trong dạy học, HS chủ động tiếp thu kiến thức, hệ thống, ghi nhớ, vận dụng kiến thức bài học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. * Thiết kế BĐTD của GV: Sử dụng phần mềm “Mindmap” 5. Sử dụng các biện pháp Tạo tình huống có vấn đề . Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới thiệu bài, tạo tình huống có vấn đề cũng hết sức quan trọng vì nó là sự chuyển tiếp giữa mảng kiến thức cũ và mảng kiến thức mới. Việc này cần thiết ngay từ đầu giờ lên lớp để thu hút được học sinh, dẫn dắt các em tự giác tìm hiểu nội dung. Ví dụ: Dạy bài Phân số (trang 106 SGK Toán 4) Giáo viên cắt 1 quả cam thành 4 phần bằng nhau, đưa ra từng phần và hỏi: Một miếng gọi như thế nào? Biểu diễn bằng số 1 (quả) được không? Như vậy phải gọi như thế nào? Hôm nay cô sẽ giới thiệu với các em một loại số mới, không phải là số tự nhiên mà chúng ta vẫn học, đó là phân số. -> Một bài tập nhỏ, một tình huống có vấn đề được đưa ra và khi giải quyết có thể mất thời gian một chút nhưng điều đó sẽ tạo cho HS sự tò mò, kích thích tính chủ động học tập của HS. 6. Tổ chức trò chơi toán học. - Tổ chức trò chơi trong dạy học môn Toán có sức hấp dẫn kì lạ, không đơn thuần là phương tiện giải trí bổ ích mà qua đó giúp HS hứng thú, tích cực học tập, khắc sâu kiến thức, nắm được một số kĩ năng quan trọng như giao tiếp, vận động nhanh nhẹn, khéo léo. - Trò chơi học tập có thể thực hiện ở phần khởi động, củng cố, hoặc trọn vẹn trong tiết học bài mới. Giáo viên nên vận dụng tổng hợp trò chơi học tập kết hợp với những phương pháp khác như hoạt động nhóm, hỏi đáp, quan sát.. - Hiện nay, có rất nhiều trò chơi được áp dụng như Rung chuông vàng, Ô số may mắn... Tuy nhiên để giúp trò chơi phong phú hơn, tạo hiệu quả cho tiết học, tôi xin chia sẻ một số trò chơi sau: + Trò chơi Đường lên đỉnh Olypia với các vòng chơi: Khởi động, vượt chướng ngại vật, tăng tốc, về đích sẽ được thiết kế tương đương với nội dung của 1 tiết học Toán như Kiểm tra bài cũ, hình thành kiến thức, luyện tập, củng cố. HS sẽ rất tích cực học tập, hào hứng tham gia để lĩnh hội kiến thức. + Trò chơi Đánh bay Covid tổ chức trong phần khởi động, mỗi câu trả lời đúng sẽ tiêu diệt được Covid và trở về đích. + Trò chơi: Chú thỏ tìm bạn. Dùng trong bài củng cố phân số bằng nhau, rút gọn phân số. Chuẩn bị: - Hình cắt một chú thỏ. - 10 củ cà rốt đính thẻ ghi số và bông hoa yêu cầu. - Bảng nỉ hay bảng cài, kẹp giấy. Cách chơi: - Giáo viên yêu cầu học sinh xung phong tìm các củ cà rốt mà chú thỏ thích ăn (theo điều kiện khác nhau) đặt phía trên. Hoa yêu cầu đặt trên tay chú thỏ. - Có thể tổ chức cho học sinh thi tiếp sức giữa hai đội. - Đội nào thực hiện đúng, nhanh đội đó chiến thắng. + Trò chơi: Chiếc nón kì diệu Dùng trong củng cố cách viết, đọc phân số. Chuẩn bị: Một bàn quay số và các thẻ ghi số tự nhiên. Cách chơi: - Chia lớp thành 4 đội, đại diện mỗi đội 1 em lên thực hiện trò chơi. - Một học sinh lên quay vòng số. Vòng số dừng lại số nào thì ghi phân số ra bảng và đọc phân số đó. Cờ màu xanh biểu thị tử số, cờ màu đỏ biểu thị mẫu số. Ghi đúng và đọc đúng phân số thì được thưởng hoa tích cực. *Trò chơi Toán học cũng có thể là những câu đối vui giúp học sinh thư giãn, thoải mái trong lớp tạo hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh. Ví dụ 1: Khi dạy về dấu hiệu chia hết cho 2. Có một đàn ngựa và một số cậu bé. Nếu mỗi cậu bé cưỡi 1 con ngựa thì thừa 1 cậu bé. Nếu 2 cậu bé cưỡi chung 1 con ngựa thì thừa 1 con. Hỏi có mấy cậu bé, mấy con ngựa? Giải Số cậu bé nhiều hơn số con ngựa là 1 Số cậu bé chia hết cho 2 => Số cậu bé là số chẵn. Thử số cậu bé là số chẵn từ 2, 4, 6, 8 Số ngựa luôn ít hơn số cậu bé là 1 -> Số cậu bé là 4 người. Số con ngựa là 3 con Ví dụ 2: Khi học về khái niệm hình bình hành: Giáo viên đố: Với 6 que diêm, con hãy xếp thành 5 hình bình hành. à Trò chơi học tập chính là phương pháp “học mà chơi, chơi mà học” có hiệu quả giáo dục cao, thu hút được tất cả học sinh trong lớp tích cực tham gia, tạo không khí sôi nổi, vui tươi, hào hứng học tập, phát huy vốn kiến thức của mình để có thể trả lời đúng câu hỏi. Đồng thời thông qua trò chơi còn giúp cho các em thêm đoàn kết, gắn bó, yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô và bạn bè, khiến các em thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui. - Nên sử dụng PowerPoint hoặc sử dụng phần mềm Educandy (phần mềm thiết kế trò chơi học tập).. để thiết kế bài giảng sinh động. 7. Tổ chức hoạt động trải nghiệm bằng hình thức dạy học dự án. Tổ chức hoạt động trải nghiệm bằng hình thức dạy học dự án tạo cơ hội cho HS tự thực hiện nhiệm vụ từ việc lập kế hoạch đến việc báo cáo sản phẩm. Từ đó phát huy được tính tự giác, tích cực, ý thức trách nhiệm và phát triển các năng lực. Dạy học theo dự án có thể được thực hiện theo các bước sau: Bước Hoạt động của GV Hoạt động của HS Chuẩn bị: - Xác định ý tưởng, xác định chủ đề, mục đích dự án. - Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập. - Xây dựng câu hỏi định hướng: xuất phát từ nội dung bài học và mục tiêu cần đạt. - Thiết kế nhiệm vụ cho HS: làm thế nào để HS thực hiện xong thì bộ câu hỏi cũng được giải quyết và đạt được các mục tiêu đề ra lúc đầu. - Chuẩn bị tài liệu hỗ trợ GV và HS cùng các điều kiện thực hiện dự án. - Đưa ra các tiêu chí để đánh giá dự án. - Làm việc nhóm để lựa chọn chủ đề dự án. - Xây dựng kế hoạch dự án. + Lên kế hoạch những việc cần làm và phân công công việc trong nhóm. + Thời gian dự kiến tiến hành, cơ sở vật chất. + Phương pháp tiến hành - Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng tin cậy để thực hiện dự án. Thực hiện dự án: - Thu thập thông tin - Thực hiện điều tra - Trao đổi, thảo luận với các thành viên trong nhóm. - Hỏi ý kiến GV. - Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá HS trong quá trình thực hiện dự án. - Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho HS thực hiện dự án. - Bước đầu nắm đựợc tình hình sản phẩm cuối cùng của các nhóm HS. - Phân công nhiệm vụ, các thành viên trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế hoạch. - Thu thập thông tin, phân tích xử lý thông tin tìm hiểu được. - Xây dựng sản phẩm. Kết thúc dự án: - Tổn
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_phat_huy.docx

