Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong môn Tiếng Anh THCS
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong môn Tiếng Anh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong môn Tiếng Anh THCS

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẾ VÕ TRƯỜNG THCS BỒNG LAI BÁO CÁO BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG ANH NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG MÔN TIẾNG ANH TRUNG HỌC CƠ SỞ Họ và tên: Hoàng Thị Vân Hiền Môn giảng dạy: Tiếng Anh Trình độ chuyên môn: Đại học Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Bồng Lai Bắc Ninh, ngày 02 tháng 11 năm 2021 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HS Học sinh THCS Trung học cơ sở SGK Sách giáo khoa SBT Sách bài tập PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Trong tình hình phát triển giáo dục nước ta hiện nay đã trải qua nhiều lần đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới sách giáo khoa để đáp ứng yêu cầu giáo dục người học một cách tốt nhất để người học tiếp thu kiến thức tốt tất cả các bộ môn nói chung ở bậc Trung học cơ sở, trong đó có bộ môn tiếng Anh cũng được đổi mới nhằm đáp ứng có hiệu quả quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đổi mới hình thức sách giáo khoa đến nội dung, yêu cầu dạy học theo mục tiêu bộ môn đến đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực của học sinh trong học tập. Để đáp ứng được yêu cầu thực tế đó. Mỗi giáo viên cần phải tìm cho mình một phương pháp dạy học tối ưu, phù hợp với từng đối tượng thực tế của từng học sinh để đạt kết qủa cao đó mới là vấn đề, là mục đích mà mỗi giáo viên đang đứng lớp phải trăn trở, phải suy nghĩ. Làm thế nào để học sinh có thể lĩnh hội được toàn bộ kiến thức và sử dụng nó một cách thành thạo? Với những điều kiện đòi hỏi trên, một trong những phương pháp học tập có tính khả thi là dạy học hợp tác trong nhóm. Hiện nay, học tập theo nhóm vừa là một yêu cầu vừa là một phương pháp học được khuyến khích áp dụng rộng rãi, nhất là đối với học sinh ở trường THCS. Phương pháp này không đòi hỏi điều kiện học tập gì đặc biệt, lại không phụ thuộc quá nặng nề vào “cá tính” hay “khả năng đặc biệt” của người dạy giống như các phương pháp dạy học khác. Đối với phương pháp dạy học hợp tác nhóm thì các nhiệm vụ học tập được giải quyết không phải từng cá nhân riêng rẽ mà là sự phối hợp, sự hợp tác của các thành viên trong một nhóm. Việc phối hợp học tập theo cả chiều đứng (Thầy – Trò) và chiều ngang (Trò – Trò) tạo điều kiện cho học sinh nhận thức từ hai phía thầy và bạn. Chính trong quá trình học tập chung đó, các em được trao đổi thảo luận học hỏi lẫn nhau, được khẳng định mình trong nhóm, tập thể tạo nên bầu không khí dân chủ trong lớp học. Đồng thời học tập nhóm còn rèn luyện tính độc lập, tự chủ, khả năng diễn đạt, lập luận vấn đề, sự hợp tác tương trợ lẫn nhau, ý thức cộng đồng, tính kỷ luật,vv Từ đó, giúp cho học sinh có thể thích ứng nhanh với những đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội và hướng học sinh vào chuẩn bị cho cuộc sống chứ không phải chuẩn bị cho thi cử. Đây cũng chính là mục đích cuối cùng của dạy học. Xuất phát từ những tiền đề lí luận và thực tiễn trên, tôi mạnh dạn xin được đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân qua việc sử dụng giải pháp: “Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong môn Tiếng Anh THCS” PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY HỌC VÀ TÍNH CẤP THIẾT 1.1. Thực trạng của vấn đề Trong những năm học qua, hoạt động nhóm được các giáo viên môn Tiếng Anh tại trường THCS Bồng lai rất chú trọng thực hiện, bước đầu có mang lại một số hiệu quả nhất định cả về nội dung và hình thức. Tuy nhiên hiệu quả chưa cao. a. Thuận lợi - Về phía học sinh: + Một số học sinh có khả năng suy luận logic rất tốt, mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trước đông người. + Khả năng tự học, tự tìm kiếm thông tin của học sinh là khá cao - Về phía giáo viên: + Giáo viên đều nhiệt tình, luôn tìm tòi sáng tạo trong đổi mới phương pháp, nhằm nâng cao hiệu quả bài giảng. + Các giáo viên trong tổ đã thảo luận chuyên đề, tổ chức hoạt động nhóm nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh. - Về phía nhà trường: Trang thiết bị hỗ trợ cho việc soạn, giảng được trang bị đầy đủ. b. Khó khăn - Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Anh, tôi rất chú trọng đến việc cho học sinh thảo luận để khám phá kiến thức bài mới. Tuy nhiên, tổ chức các hoạt động thảo luận thường làm mất nhiều thời gian của tiết học. Vì lí do trên giáo viên khó có thời gian khắc sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh. Nhiều bài học nếu không tổ chức khéo léo dễ dẫn tới tính trạng cháy giáo án, tiết dạy không có chiều sâu, không đạt được mục tiêu giáo dục về cả kiến thức, kĩ năng mặc dù giảng dạy theo phương pháp tích cực. Ở các tiết học, giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh thảo luận bằng hệ thống các câu hỏi, giáo viên yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả thảo luận và giáo viên kết luận nhanh về nội dung trả lời của câu hỏi đã đưa ra, sau đó học sinh tự ghi nhớ kiến thức vừa thảo luận, phần giáo viên ghi chép trên bảng rất ít. - Việc chia nhóm và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm chưa thực sự phù hợp dẫn đến tình trạng một số học sinh không biết mình phải làm gì, dẫn đến tình trạng một số học sinh yếu kém, thụ động trong hoạt động nhóm thường ỷ lại cho học sinh khá giỏi làm. Thời lượng 1 tiết học chỉ gói gọn trong 45 phút giáo viên cần thực hiện đầy đủ các bước lên lớp: ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, đặt vấn đề, tìm hiểu nội dung bài mới, củng cố, dặn dò. Do đó nhà giáo cần phân bố thời gian hết sức khéo léo mới có thể hoàn thành tốt một bài giảng. Trong khi đó một số bài tập trong các đơn vị bài học có yêu cầu thảo luận nhóm với hướng dẫn sơ sài, khiến học sinh khó tìm thông tin và không định hướng được nội dung hoạt động, giáo viên mất thời gian để hướng dẫn. Nếu không tổ chức khéo sẽ mất thời gian cho việc thảo luận, và hoạt động nhóm trở nên bất hợp lý. Trong quá trình giảng dạy năm học 2020 - 2021 cho tôi thấy một hiện tượng: chỉ một hoặc hai học sinh trong các nhóm hoạt động tích cực, số còn lại thường coi bạn làm hoặc nghe báo cáo mà không hiểu nội dung kiến thức vừa tìm hiểu. Để khảo sát chất lượng thảo luận nhóm, tôi đã tiến hành kiểm tra theo hình thức vấn đáp cá nhân với câu hỏi về một số kiến thức mà HS đã thảo luận ngày hôm trước, kết quả cho thấy: Bảng 1: Bảng kết quả kiểm tra theo hình thức vấn đáp cá nhân trước khi áp dụng phương pháp. Mức độ 8B (37 HS) 8C (39 HS) Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 1 Trả lời trôi chảy tất cả câu hỏi 2 5,41 % 4 10,25 % 2 Trả lời được 2/3 số câu hỏi 5 13,51 % 6 15,4 % 3 Trả lời được 1/2 số câu hỏi 10 27,03 % 12 30,75 % 4 Không trả lời được câu nào (hoặc rất ít) 20 54,05 % 17 43,6 % 1.2. Tính cấp thiết của biện pháp Qua kết quả khảo sát trên ta thấy số lượng học sinh đạt yêu cầu trong hoạt động nhóm là rất thấp. Điều đó cho ta thấy việc tổ chức hoạt động nhóm chưa đạt hiệu quả. Tôi tự đặt ra câu hỏi: Làm sao để các em không ngại, rụt rè và áp lực sợ sai khi phát biểu trong giờ học? Làm sao để các em có thể phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực hợp tác của học sinh trong các nhiệm vụ học tập? Vì vậy tổ chức hoạt động cho học sinh theo nhóm một cách hiệu quả là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết phải thực hiện của từng giáo viên. 2. BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY Vì những hạn chế khi trực tiếp sử dụng phương pháp hoạt động theo nhóm như đã nêu trên, tôi luôn trăn trở tìm cách khắc phục những khó khăn đó để nâng cao chất lượng dạy - học. Trong năm học 2020 – 2021, tôi đưa ra biện pháp “Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong môn Tiếng AnhTHCS” để giải quyết vấn đề trên. a. Biện pháp 1: Nâng cao sự chuẩn bị của giáo viên trước bài học. Chuẩn bị ở nhà: - Trước hết cần nghiên cứu thật kĩ nội dung thảo luận, xác định rõ yêu cầu của bài tập. - Nghiên cứu tìm ra những câu hỏi phù hợp, có khả năng phát huy tính tư duy, sáng tạo của học sinh. Tránh những câu hỏi quá dễ hoặc quá khó. - Chuẩn bị phiếu học tập hoặc các câu hỏi yêu cầu học sinh thảo luận để phát cho các nhóm đối với những bài tập có yêu cầu đơn điệu. - Lập kế hoạch về cách tổ chức nhóm, phân công nhiệm vụ. Đây là công việc hết sức quan trọng, cần thực hiện từ đầu năm học. Chia nhóm, phân công nhóm trưởng (người sẽ chịu trách nhiệm hỗ trợ giáo viên điều khiển và quản lý nhóm), thư kí (người sẽ chịu trách nhiệm tổng hợp kết quả thảo luận), số lượng thành viên trong mỗi nhóm (không nên quá đông hoặc quá ít, khoảng 4 - 6 học sinh là phù hợp), số thành viên trong nhóm chia theo tỷ lệ học sinh khá, giỏi; yếu kém tương đối đồng đều, tạo cho học sinh thói quen tự xếp nhóm trong các tiết học sau. Trên lớp: - Nêu giới hạn thời gian hoạt động nhóm để học sinh tận dụng tối đa thời gian hoạt động tích cực sao cho hiệu quả. - Hỗ trợ học sinh để hoàn thành công việc, giám sát hành vi của học sinh và can thiệp: Đôi khi phải tạm dừng hoạt động của nhóm để hướng dẫn lại hoặc hỏi học sinh nên làm thế nào? - Đưa ra các cách đánh giá kết quả cho điểm các nhóm. Đánh giá như thế nào để khuyến khích học sinh làm việc theo nhóm, đảm bảo sự công bằng và thực hiện được mục tiêu của làm việc nhóm là rất quan trọng; gồm: + Các nhóm đánh giá kết quả làm việc của nhau: Sau khi có sự đánh giá, nhận xét nội bộ trong nhóm, giáo viên yêu cầu từng nhóm cử đại diện nên trình bày kết quả làm việc của nhóm mình. Tiếp theo mỗi nhóm lại cử đại diện lên kiểm tra, nhận xét kết quả chéo nhau, ví dụ nhóm 1 có thể kiểm tra kết quả làm việc của nhóm 2, nhóm 2 kiểm tra kết quả làm việc của nhóm 3 và nhóm 3 kiểm tra kết quả làm việc của nhóm 4, + Học sinh tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm: Cần tạo cơ hội để các thành viên trong mỗi nhóm tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm mình. Trước tiên cần lưu ý khi để học sinh tự đánh giá là giáo viên phải hướng các em vào việc đánh giá ở cả hai khía cạnh: nhận thức và cách thức mà nhóm làm việc (sự tham gia tích cực của các thành viên, sự hợp tác với nhau, lắng nghe ý kiến của nhau, giải quyết bất đồng, v.v...). + Giáo viên đánh giá, nhận xét kết quả làm việc của các nhóm: Công việc này có thể tiến hành song song hoặc sau khi đã có sự đánh giá giữa các nhóm với nhau. Giáo viên nên cùng học sinh kiểm tra lại kết quả đánh giá của các nhóm có đúng không? chỗ nào đánh giá chưa đúng thì cần chỉ ra cho toàn lớp biết sai ở đâu và vì sao sai. Kết quả làm việc của nhóm có thể được giáo viên sử dụng để cho điểm các thành viên trong nhóm. Một vài giáo viên đã đánh giá cho cùng điểm số như nhau đối với mọi thành viên trong nhóm khi cùng thực hiện nhiệm vụ nhóm. Họ cho rằng nếu đánh giá từng học sinh thì vô tình chung sẽ dẫn đến sự ganh đua trong nhóm với nhau và như vậy phá hỏng những lợi ích của làm việc theo nhóm. Một số giáo viên khác cho điểm theo sự đóng góp của mỗi em dựa trên các điểm số bài kiểm tra của mỗi em hoặc dựa trên sự đánh giá của nhóm về công việc của từng thành viên. Tuy nhiên, khi đánh giá cho điểm học sinh, giáo viên cần tính đến tính đa mục đích cuả dạy học theo nhóm: thứ nhất là đánh giá kiến thức/hay nhiệm vụ đã hoàn thành mà học sinh thu được sau khi làm việc nhóm. Thứ hai là kĩ năng cần thiết để làm việc nhóm. b. Biện pháp 2: Nâng cao sự chuẩn bị của học sinh trước bài học. Nhiệm vụ ở nhà: - Cần có sự chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên từ tiết học trước bao gồm chuẩn bị nội dung kiến thức của bài, chuẩn bị các phiếu học tập mà giáo viên giao cho. Học sinh có thể tìm hiểu thêm những kiến thức xã hội có liên quan đến bài học. - Thống nhất cách sắp xếp nhóm và một số quy định và kí hiệu khi thảo luận nhóm. Nhiệm vụ trên lớp: - Tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo trong hoạt động hợp tác nhóm để đạt được không chỉ những tri thức và kỹ năng của bộ môn mà quan trọng hơn là tiếp thu được cách học, cách tự học. - Biết tự đánh giá kết quả hoạt động của mình để trên cơ sở đó bản thân học sinh có thể điều chỉnh các hoạt động của mình theo các mục tiêu đã định. c. Biện pháp 3: Tăng cường về cơ sở vật chất. Để việc dạy và học tiêng Anh nói chung cũng như áp dụng thành công có hiệu quả, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, thì việc tăng cường về cơ sở vật chất kỹ thuật cho dạy và học tiêng Anh là một vấn đề cấp thiết. So với thập kỷ trước đây thì điều kiện vật chất cho việc dạy học tiếng Anh ở các trường THCS đã được cải thiện một cách đáng kể. Trong các giờ học tiếng Anh, hầu hết học sinh trong một lớp đều có SGK, SBTHầu hết các trường nhiều giáo viên đã sử dụng loa nghe trong các giờ học nghe trên lớp và thiết kế bài học với sự trợ giúp của power-point, bảng thông minh. Ngoài yêu cầu chính cho một giờ dạy học tiếng Anh nói chung kể trên còn có các yêu cầu quan trọng khác cho hoạt động dạy học hợp tác nhóm trên lớp như sau: - Về không gian thảo luận : Không quá chật, cũng không quá rộng, phòng học phải có diện tích hợp lý sao cho giáo viên có thể quan sát được sự làm việc tất cả các nhóm. Nếu phòng học quá chật sẽ rất khó khăn cho việc chia nhóm, các nhóm có thể mất trật tự, hiệu quả làm việc không cao. - Bàn ghế trong lớp sắp xếp linh hoạt theo nhiều hình thức khác nhau. - Phiếu học tập (Do giáo viên chuẩn bị). - Máy chiếu đa năng của trường 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM a. Mô tả cách thức thực hiện Trong quá trình giảng dạy tại trường THCS Bồng Lai, bản thân tôi đảm nhận khối 8 và khối 9 trong năm học 2020-2021. Với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành, rút kinh nghiệm. Ngay từ đầu năm học tôi đã định hướng cho mình một kế hoạch và phương pháp cụ thể để chủ động điều tra tình hình học tập học sinh 2 lớp 8B và 8C do mình phụ trách. Và cụ thể bắt đầu HKI ( năm học 2020 - 2021). Tổng số HS: 76 HS. Việc chia nhóm và phân công nhiệm vụ đã được thống nhất, trước mỗi tiết dạy các em tự sắp nhóm theo phân công của giáo viên. Hoạt động nhóm có thể thực hiện trong quá trình giảng dạy tất cả các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và cả phần ngữ pháp. Tuy nhiên bản thân tôi thấy hình thức tổ chức lớp học này đặc biệt hiệu quả trong một số hoạt động sau đây: Warm up (Hoạt động khởi động) Đây là phần đầu trước khi vào nội dung chính của tiết học, thường là những hoạt động đơn giản để học sinh làm quen với chủ đề bài học và không mất nhiều thời gian nên việc cho học sinh thảo luận đưa ra ý kiến sẽ tạo được hứng thú và phát huy tính tích cực của học sinh trước bài học. Ví dụ: - Unit 1: LEISURE ACTIVITIES- GETTING STARTED Game : Brainstorming (5 minutes) Trò chơi này không khó, cả học sinh yếu kém cũng có khả năng thảo luận được vì có liên hệ thực tế sở thích của bản thân rất quen thuộc với các em, vốn từ vựng cũng khá đơn giản. Tuy nhiên mỗi thành viên trong nhóm đều phải hoạt động vì chủ đề có nhiều tiêu chí và nhóm nào ghi được nhiều tiêu chí hơn nhóm đó sẽ thắng. Your leisure activities Trong hoạt động này tôi chia lớp thành 2 nhóm, yêu cầu học sinh thảo luận với nhau và từng em lên bảng viết hoạt động thường làm của bản thân đa số học sinh khá hứng thú với hoạt động này. - Unit 3 PEOPLE OF VIETNAM- GETTING STARTED Game: Crossword (5 phút) 1. I’d like to buffaloes in the fields 2. The farmers are very busy during harvest 3. Have you ever ridden a .? 4. People in the country are often open and .. 5. There are many . paddies in my hometown 6. I think . life is more interesting than . city life H E R D T I M E H O R E S F R I E N D L Y R I C E C O U N T R Y Cách khởi động này thú vị, sinh động tạo hứng thú cho học sinh, vừa yêu cầu học sinh phải nhớ được kiến thức bài cũ vừa kết hợp giới thiệu chủ đề ngữ liệu mới nhưng đòi hỏi học sinh suy đoán, và thảo luận tích cực. Giáo viên chia lớp thành 2 đội và đưa ra 6 câu hỏi tương ứng với 6 ô chữ. Đội nào lật mở được nhiều ô chữ hơn hoặc đoán được từ khóa trước đội đó chiến thắng. Yêu cầu của trò chơi này tạo điều kiện cho những học sinh yếu kém có thể thảo luận và nhớ lại kiến thức từ vựng đã học. Practice (Hoạt động luyện tập) Unit 3 Skills 1- Exercise 4: Read some facts about the Bru-Van Kieu people and the Khmer people. Work in groups. Choose one of the two ethnic groups and talk about it. Phần bài tập này là hình thức luyện tập nói, học sinh dựa vào thông tin trong bảng để nói về một dân tộc trong bài. Các em sẽ thảo luận sôi nổi hơn vì có thông tin cho sẵn rồi đồng thời các em cũng vừa được đọc bài về dân tộc Thái trong phần đầu bài học các em sẽ dễ liên tưởng, suy luận hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần hỗ trợ cho học sinh một số mẫu câu nói cho học sinh hoặc đưa ra một bài mẫu về một dân tộc khác cho học sinh tham khảo nếu học sinh còn yếu kĩ năng viết. Với bài này giáo viên vẫn chia lớp làm 4 nhóm, các thành viên tích cực đưa ra các ý kiến của bản thân mình vào bài nói sau đó thư kí tổng hợp lại và nhóm cử 5 bạn đại diện lên nói về 5 tiêu chí của một dân tộc. - Unit 5 FESTIVALS IN VIETNAM - Communication Exercise 4: Roleplay in groups of three. One of you is a reporter, two of you are locals. Do an interview about a local festival. It can be a real or imaginary. Phần bài tập tập này là hình thức luyện nói mở rộng các thành viên đều có thể được tham gia đóng vai và luyện nói giao tiếp các mẫu câu hỏi và trả lời về một số các tình huống ứng xử trong cuộc sống. Trong quá trình luyện tập các bạn trong nhóm có thể hỗ trợ sửa lỗi phát âm cho nhau. Trước khi thực hành giáo viên có thể đưa ra những từ vựng và mẫu câu giao tiếp cần thiết trong bài và cách phát âm một số từ khó hoặc một bài mẫu cho học sinh thực hành trước. - Unit 2: LIFE IN THE COUNTRYSIDE- A CLOSER LOOK 2 GRAMMAR: COMPARATIVE OF ADJECTIVES AND ADVERBS -Unit 7: POLLUTION – A CLOSER LOOK 2 GRAMMAR: CONDITIONAL TYPES Sau khi học xong phần ngữ pháp các bài này giáo viên có thể yêu cầu học sinh hệ thống lại lý thuyết và các công thức của bài qua sơ đồ tư duy để học sinh có thể ghi nhớ một cách hiệu quả các cấu trúc một cách ngắn gọn và đơn giản nhất giúp học sinh không còn sợ các tiết học ngữ pháp nữa mà còn hứng thú học hơn với các công thức được thể hiện bằng các hình vẽ sinh động.Việc sử dụng sơ đồ tư duy giúp các học sinh trong nhóm phát huy được tính sáng tạo mỗi thành viên đều được nêu ra ý kiến cá nhân của mình để góp phần hoàn thiện sơ đồ cũng như củng cố được kiến thức trong bài. Giáo viên có thể đưa ra sơ đồ tư duy mẫu và yêu cầu học sinh thảo luận nhóm vận dụng sự sáng tạo của các thành viên vẽ ra sơ đồ tư duy theo ý kiến của nhóm. Sơ đồ minh họa của giáo viên về phần ngữ pháp so sánh và câu điều kiện. Kết quả đạt được Quá trình thực nghiệm của tôi đã và đang tiến hành từ đầu năm học 2020 - 2021 tới nay, tôi nhận thấy kết quả giảng dạy và học tập một số chuyển biến đáng kể. Thứ nhất, giáo viên có điều kiện kiểm tra nhiều học sinh trong cùng một lúc với sự trợ giúp của học sinh khá giỏi, từ đó rút ngắn được thời gian kiểm tra phần thực hành của học sinh để dành thời gian cho những hoạt động khác. Thứ hai, hầu hết học sinh có hứng thú với hoạt động nhóm và có thái độ tích cực trong hoạt động thảo luận, có khả năng tự tìm tòi, nghiên cứu để trao đổi, học sinh yếu kém không còn tự ti và ngại thảo luận. Thứ ba, giáo viên làm việc bớt căng thẳng, bớt đi những lời thuyết giảng. Đa số học sinh nắm bắt được nội dung bài học sau khi học ở trường. Cuối cùng, trong quá trình kiểm tra vấn đáp cho tôi thấy con số đáng mừng, đa số học sinh yếu kém đã có thể bắt kịp được những câu hỏi mà giáo viên đặt ra về kết quả thảo luận của tiết học trước. Cụ thể bằng kết quả thảo luận thống kê như sau: Bảng 1: Bảng kết quả kiểm theo hình thức vấn đáp theo các mức độ trước khi áp dụng phương pháp. Mức độ 8B (37 HS) 8C (39 HS) Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 1 Trả lời trôi chảy tất cả câu hỏi 2 5,41 % 4 10,25 % 2 Trả lời được 2/3 số câu hỏi 5 13,51 % 6 15,4 % 3 Trả lời được 1/2 số câu hỏi 10 27,03 % 12 30,75 % 4 Không trả lời được câu nào (hoặc rất ít) 20 54,05 % 17 43,6 % Bảng 2: Bảng kết quả kiểm tra theo hình thức vấn đáp theo các mức độ sau khi áp dụng phương pháp. Mức độ 8B (37 HS) 8C (39 HS) Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 1 Trả lời trôi chảy tất cả câu hỏi 8 21,61% 10 25,65% 2 Trả lời được 2/3 số câu hỏi 10 27,03% 10 25,65% 3 Trả lời được 1/2 số câu hỏi 13 35,14% 15 38,45% 4 Không trả lời được câu nào (hoặc rất ít) 6 16,22% 4 10,25% Để có thể nhìn thấy được sự chuyển biến đáng kể trước và sau khi áp dụng biện pháp của 2 lớp 8B và 8C tôi thể hiện cụ thể bằng hai biểu đồ sau: Từ 2 biểu đồ trên ta nhận thấy số lượng học sinh trả lời được tất cả câu hỏi, 2/3 câ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_hoat_dong_nhom_trong.doc