Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học
ĐỀ TÀI: TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC LÀM VÀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đồ dùng dạy học là một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá trình dạy học. Nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giúp học sinh có hứng thú trong học tập. Nhưng việc sử dụng đồ dùng dạy học đa số chỉ tập trung vào các hoạt động cung cấp kiến thức mới với những thiết bị sẵn có. Còn những tiết luyện tập thực hành thì kho thiết bị của nhà trường chưa đáp ứng đủ đồ dùng phục vụ cho những tiết học này. Vốn dĩ những tiết luyện tập thực hành cơ bản nó rất khô khan, nhưng nó là phần quan trọng trong chuỗi tiếp thu kiến thức của học sinh vì học phải đi đôi với hành. Nhưng nếu những tiết học như vậy mà chúng ta cứ tổ chức cho học sinh làm bài tập rồi sửa bài trên bảng phụ hoặc nêu miệng kết quả thì tiết học diễn ra nặng nề, học sinh học uể oải. Từ đó làm giảm hiệu quả khắc sâu kiến thức của học sinh. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng: “ Trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán”. Chính vì thế mà tôi luôn nghĩ, phải có cách nào đó để những tiết học như vậy đỡ khô khan, học sinh được thư giãn ngay trong tiết học và cảm thấy hứng thú trong học tập. Từ những suy nghĩ trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học và tôi rút ra được một điều: Học sinh tiểu học cảm thấy mệt mỏi và chán học khi chỉ nhìn thấy mãi một hình ảnh của giáo viên. Lúc đó học sinh mong muốn được nhìn thấy một cái gì khác ngoài giáo viên để tạo ra một cảm giác thoải mái khi có cái mới để thu nhận kiến thức, thường cái mới đó là đồ dùng dạy học. Ngoài ra, học sinh tiểu học mới từ mẫu giáo chuyển lên, các em rất thích thu nhận và thể hiện kiến thức thông qua hình thức “ Học mà chơi- chơi mà học”. Nắm bắt được điều này tôi đã tự làm đồ dùng dạy học với tên gọi trò chơi, thử dạy vào hoạt động củng cố của môn toán bài luyện tập. Tôi thấy học sinh rất hứng thú, tiết học sôi nổi, giảm bớt sự căng thẳng sau một thời gian giải quyết bài tập trong phần bài mới . Từ đó tôi tiến hành thực hiện và phổ biến chuyên đề: “Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học”. II. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong những tiết học hằng ngày nói chung và những tiết tham gia thao giảng nói riêng là điều mà tất cả giáo viên phải thực hiện. Nhưng đồ dùng dạy học mà giáo viên sử dụng trong các tiết luyện tập thực hành hoặc hoạt động củng cố bài chưa phong phú và đa dạng thường chỉ là đồ dùng sẵn có: phiếu học tập hoặc một số đồ dùng tự làm khác nhưng màu sắc chưa đẹp, áp dụng không rộng rãi ở các môn học và chưa đáp ứng được nhu cầu tâm lý của học sinh tiểu học. Chính vì thế mà hình thức tổ chức học tập cho học sinh cũng không đa dạng , thường lặp đi lặp lại một số hình thức tổ chức. Trong năm học 20...-20..., khi tham gia dự giờ thao giảng tổ, thao giảng hội đồng, thi giáo viên dạy giỏi vòng trường, tôi nhận thấy với cách tổ chức dạy học cho học sinh làm bài rồi sửa bài trên bảng phụ hoặc củng cố kiến thức cho học sinh trong hoạt động củng cố bằng cách hỏi đáp làm cho tiết học diễn ra nặng nề, chưa gây được sự hứng thú học tập cho học sinh, một số em không tập trung nhất là những phút cuối của tiết học. Với tiết học diễn ra như vậy, chắc hẳn hiệu quả sẽ không cao, hạn chế việc khắc sâu kiến thức của học sinh. Tôi đã tiến hành khảo sát kết quả khắc sâu kiến thức của học sinh ở toàn khối lớp 2 ( năm học 20...-20...) sau khi học xong bài “Từ chỉ sự vật- MRVT ngày, tháng năm”. Bài kiểm tra với yêu cầu như sau: Em hãy tìm từ chỉ sự vật trong câu văn sau: Bỗng có hai cậu bé đi vào vườn, cắt cả đám cỏ lẫn bông cúc đem về bỏ vào lồng sơn ca. Kết quả thu được như sau: Số em kiểm tra Đúng 6 từ Đúng 5 từ Đúng 4 từ Đúng 3 từ Đúng 2 từ Đúng 1 từ Không đúng từ nào 105 50 47.6% 35 33.3% 15 14.3% 5 4.8% 0 0 0 Qua bài kiểm tra trên, ta thấy học sinh vẫn nắm được bài nhưng số lượng trọn vẹn chưa cao. Như vậy, việc hứng thú trong học tập góp phần không nhỏ trong việc giúp học sinh khắc sâu kiến thức. III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em ưa thích cái đẹp, thích hình ảnh nhiều màu sắc, nên đồ dùng dạy học tôi sử dụng không chỉ đơn thuần là bảng phụ, giấy A0, phiếu học tập trên giấy A4, mà tôi đã làm những đồ dùng dạy học dưới tên gọi trò chơi, với những con vật như vịt, thỏ, hoặc cây, hoa, củvà được sử dụng dưới nhiều hình thức : trao đổi nhóm, cá nhân trong các hoạt động kiểm tra kiến thức ( phần củng cố), giải quyết bài tập ( phần bài mới ) ở các môn học: toán, luyện từ và câu, đạo đức, tự nhiên xã hội ... Với những đồ dùng dạy học này sẽ tạo hứng thú hơn, sinh động hơn, hiệu quả hơn khi học sinh luyện tập thực hành. Các mẫu đồ dùng mà tôi đã làm và sử dụng: 1. Trang trí thành khu vườn: 1.1 . Cách làm: Tôi dùng giấy bìa cứng, giấy ro ki hoặc giấy lịch cứng cũ vẽ cắt ông mặt trời, hình tam giác, thân cây, tán cây, đám mây, hình chữ nhật (gọi chung là mảnh ghép) rồi tô màu, trang trí sau đó đem ép nhựa như các hình chụp dưới đây: 10 cái 5 cái 5 cái 5 cái 5 cái 10 cái 1.2. Cách sử dụng: “Ông mặt trời” chứa yêu cầu còn các mảnh ghép còn lại sẽ là đáp án.. 1.3. Áp dụng vào giảng dạy : Ví dụ: Môn : Luyện từ và câu Bài: Từ chỉ sự vật – MRVT ngày, tháng, năm Bài tập 1: Hãy tìm các từ chỉ người, chỉ vật, chỉ cây cối , con vật. Tôi sử dụng mẫu đồ dùng “Trang trí thành khu vườn” tổ chức cho học sinh giải quyết bài tập với hình thức sau: Tôi chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 9 em và phát cho mỗi em một mảnh ghép. Tôi chia bảng lớp thành bốn phần và đính các “ông mặt trời” mang yêu cầu lên bảng: Từ chỉ người Từ chỉ vật Từ chỉ cây cối Từ chỉ con vật Tôi yêu cầu mỗi nhóm thực hiện một yêu cầu trên “ông mặt trời”. Các nhóm thảo luận và giúp đỡ nhau sao cho mỗi người trong nhóm đều ghi được một từ lên mảnh ghép theo yêu cầu. Sau đó lần lượt từng thành viên trong nhóm, đính các mảnh ghép của mình lên bảng lớp dưới “ông mặt trời” của nhóm mình để được một khu vườn vừa đúng vừa đẹp. Kết quả của bài tập 1 là 4 khu vườn sẽ được hoàn thành chẳng hạn như sau: em bé bác sĩ Từ chỉ người bộ đội học sinh ông ngoại cô giáo công nhân ba mẹ đám cỏ Từ chỉ cây cối hoa lan cây mít cây xoài cây ớt sầu riêng lúa cây ổi bắp chim sơn ca Từ chỉ con vật con ong con rùa cá sấu gà con con mèo con voi họa mi con cừu bút phấn Từ chỉ vật bảng con cái chai quyển vở cáí lồng đồng hồ cửa ti vi Ở trong tiết học này có 3 bài tập, hai bài tập còn lại các em chỉ có thể tự làm bài rồi nêu miệng kết quả. Nếu ở bài tập 1 giáo viên cũng tổ chức cho các em làm bài rồi nêu miệng kết quả thì tiết học trở nên đơn điệu và buồn chán. Với hình thức tổ chức trên, tôi không chỉ tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh ngay từ đầu tiết học mà còn giúp các em hiểu và khắc sâu kiến thức về từ chỉ sự vật. 2. Đám mây 2.1. Cách làm: Dùng giấy bìa A3 vẽ, cắt các “đám mây” và 6 “ông mặt trời”, giấy ro ki cắt thành 6 miếng (gọi là bảng nhóm) để dùng gắn các đám mây và ông mặt trời như hình chụp ở trên. Các “đám mây” và “ông mặt trời” đều được ép nhựa. 2.2. Cách sử dụng: “Ông mặt trời” chứa yêu cầu còn các “đám mây” sẽ là đáp án. 2.3. Áp dụng vào giảng dạy: Ví dụ: Môn : Đạo đức Bài : Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại * Bài tập 3: Em hãy đánh dấu + vào ô trước những việc em cho là nên làm khi nói chuyện qua điện thoại. Nói năng lễ phép có thưa gởi Tôi chuẩn bị 6 bảng nhóm có gắn “ông mặt trời” và 6 bộ “đám mây” có ghi nội dung của bài tập 3. Nên làm Nói năng rõ ràng mạch lạc Nói trống không Nói ngắn gọn Hét vào máy điện thoại Nhấc và đặt máy điện thoại nhẹ nhàng Nói năng lễ phép, có thưa gởi Một bộ đám mây Cách tổ chức: - Tôi chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm 6 em. - Tôi phát cho mỗi nhóm một bảng nhóm và một bộ “đám mây” như đã chuẩn bị ở trên. - Tôi yêu cầu các nhóm thảo luận, tìm đám mây có ghi việc em cho là nên làm khi nói chuyện qua điện thoại, gắn vào bảng nhóm xung quanh “ông mặt trời” để hoàn thành bảng “đám mây”. Hoàn thành xong, các nhóm gắn lên bảng lớp. * Các bảng đám mây sẽ được hoàn thành như sau: Nên làm Nói năng lễ phép, có thưa gởi Nói ngắn gọn Nói năng rõ ràng mạch lạc Nhấc và đặt máy điện thoại nhẹ nhàng Thay vì tổ chức cho học sinh làm bài vào vở bài tập, tôi tổ chức cho học sinh thi đua giữa các nhóm trên đồ dùng nhiều màu sắc, học sinh sẽ cảm thấy hứng thú hơn, tiết dạy sẽ nhẹ nhàng mà hiệu quả. Ngoài ra tổ chức cho học sinh học như thế này còn tạo được sự đoàn kết thông hiểu lẫn nhau. Ở môn đạo đức có rất nhiều bài có dạng bài tập như bài tập trên, nếu thường xuyên tổ chức cho học sinh làm bài vào vở bài tập rồi nêu miệng kết quả, học sinh sẽ cảm thấy nhàm chán, một số em sẽ không muốn học hoặc có học thì sự tiếp thu kiến thức cũng bị hạn chế. Tôi thay đổi hình thức tổ chức bằng mẫu đồ dùng nhiều màu sắc để học sinh được thay đổi không khí học tập. Từ đó tất cả học sinh đều ham học và sự thu nhận kiến thức cũng được tăng lên. Ví dụ : Môn: Tự nhiên xã hội Bài : Một số loài vật sống dưới nước ( Tổ chức trong hoạt động củng cố ) Khi dạy hoạt động này, tôi chuẩn bị 4 bảng “đám mây”, hai “đám mây” có cùng một yêu cầu: Con vật sống ở nước ngọt Con vật sống ở nước mặn Tôi chia lớp thành 4 đội, mỗi dãy bàn là một đội, thi đua theo kiểu tiếp sức với yêu cầu: Hãy viết tên con vật theo yêu cầu của “ông mặt trời” lên “đám mây”. Kết thúc cuộc thi các em sẽ hoàn thành bảng “đám mây” đúng theo yêu cầu, chẳng hạn như sau: Con vật sống ở nước ngọt cá lóc tép lươn con hến cá sấu ốc bươu cá trê cá chép cá mập cá ngừ Con vật sống ở nước mặn cá nục con sò con sứa con ghẹ bạch tuột cá thu Tổ chức thi đua như thế này, các em được làm việc độc lập. Mỗi em đều muốn tìm cho mình một đáp án đúng nên các em phải tự tư duy. Khi tổ chức hỏi đáp, các em cũng phải tư duy nhưng sự tư duy ấy chỉ tập trung ở một số học sinh khá giỏi và trả lời theo yêu cầu của giáo viên nên tiết học đơn điệu, câu trả lời của một vài học sinh sẽ không đọng lại cho tất cả các học sinh khác trong lớp, thậm chí một số em tiếp thu bài chậm không theo kịp trong phần bài mới thì đến thời điểm cuối cùng này các em cũng chưa thể nắm được bài. Còn với hình thức tổ chức thi đua trên mẫu đồ dùng đẹp mắt như thế này thì tất cả các em đều phải tư duy, tư duy một cách thích thú. Nếu như đáp án của mình sai thì các em cũng nắm được bài qua phần nhận xét kết quả bài làm của các bạn khác. 3. Vịt xuống ao 3.1. Cách làm: Tôi dùng giấy bìa ( có thể dùng giấy ro ki hay tận dụng giấy lịch ) vẽ tô màu cắt 4 cái ao, 18 con vịt rồi đem ép nhựa. 3.2. Cách sử dụng: Cái ao chứa yêu cầu còn các con vịt sẽ là đáp án.. 3.3. Áp dụng vào giảng dạy : Ví dụ Môn: toán Bài: Ôn tập phép cộng và phép trừ (Sử dụng trò chơi này vào phần củng cố) Tôi chuẩn bị cho hoạt động này như sau: Tôi chuẩn bị 4 “cái ao” với 2 “cái ao” có cùng một kết quả, các “con vịt” với các phép tính ứng với kết quả có trong “ao” ( có hai phép tính sai ). Các phép tính tôi thiết kế có khó có dễ, những phép tính đơn giản tôi sẽ phát cho những cặp học sinh yếu, tiếp thu bài chậm, để khi tham gia trò chơi, em nào cũng làm được bài. Có như vậy, tất cả học sinh trong lớp sẽ hứng thú và tự tin tham gia vào tiết học. 525 85 525 85 20 + 65 956 – 431 956 – 431 848 - 323 500 + 25 500 + 25 848 - 323 120+405 120+405 100 – 15 100 – 15 20 + 65 80+5 29 + 56 29 + 56 96+17 231+ 423 80+5 Cách tổ chức: Tôi đính 4 “cái ao” lên bảng và phát cho 2 em một “con vịt”. Tôi yêu cầu từng cặp thảo luận xem phép tính của mình ứng với “cái ao” nào thì gắn “vịt” vào “cái ao” đó. Kết quả như sau: 956 – 431 956 – 431 525 120+405 500 + 25 20 + 65 100 - 15 85 80 + 5 29 + 56 Khi hoàn thành trò chơi sẽ có hai cặp học sinh giữ lại hai “con vịt” không được gắn lên bảng. 96+17 231+ 423 Tôi sẽ hỏi : “Tại sao em không gắn vịt vào ao?”. Học sinh sẽ giải thích: “Tại vì phép tính không có kết quả ở trong “ao”. Như vậy, học sinh đó cũng hoàn thành tốt và cũng được tuyên dương. Với hình thức tổ chức trên, tôi không chỉ kiểm tra được số lượng học sinh tiếp thu kiến thức mà còn giúp những em chưa nắm được bài không tự ti với kết quả sai của mình, vì tất cả học sinh trong lớp sẽ không phát hiện bài sai đó là của ai. Nhưng bản thân học sinh làm bài sai sẽ biết và sẽ cố gắng hơn để lần sau có kết quả đúng. Ở tiết toán luyện tập hay ôn tập thì trong phần bài mới các em chỉ có thể làm bài vào vở bài tập rồi sửa bài trên bảng con, bảng phụ hay nêu miệng kết quả. Nếu ở phần củng cố giáo viên lại tiếp tục củng cố bằng cách hỏi đáp thì tiết học đối với học sinh rất nặng nề. Tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi “Vịt xuống ao” để cho tiết học trở nên sinh động hơn, học sinh sẽ được thư giãn sau một thời gian căng thẳng. Tổ chức hoạt động củng cố với hình thức như trên, tôi thấy học sinh rất hứng thú tham gia học tập dù là ở những phút cuối cùng của tiết học. Để học sinh không bị nhàm chán, tôi thay đổi hình thức trò chơi “Vịt xuống ao” bằng trò chơi “Thỏ ăn cà rốt”, “trồng hoa”, “xếp banh”, “xếp thành hình ngôi sao”. Với các mẫu đồ dùng dạy học mà tôi nêu trên, giáo viên có thể vận dùng tổ chức với nhiều hình thức khác nhau tùy theo từng hoạt động của từng môn học và sự sáng tạo của mình, sao cho hình thức mình tổ chức khai thác triệt để đồ dùng dạy học và đạt hiệu quả cao nhất. 4. Thẻ hoa: Ngoài những mẫu đồ dùng với tên gọi trò chơi tôi đã làm ở trên tôi còn làm thêm mẫu đồ dùng thẻ hoa (Đ/S, a, b, c, d). Đây là mẫu đồ dùng dạy học dùng cho cá nhân sử dụng để giải quyết các dạng bài trắc nghiệm Đúng / Sai, chọn ý trả lời đúng nhất a/b/c/d. Ví dụ: Môn Tự nhiện xã hội Bài: Các thành viên trong nhà trường Bài này tôi thiết kế trên giáo án điện tử tham gia thao giảng hội đồng. Hoạt động 3 là hoạt động củng cố với trò chơi đố bạn, tôi chiếu từng câu hỏi yêu cầu học sinh dùng thẻ a/b/c/d để chọn đáp án đúng: Ví dụ : Môn: Đạo đức: Bài: Lịch sự khi đến nhà người khác ( Thao giảng hội đồng) Trang giáo án điện tử được trình chiếu như sau : Với mẫu đồ dùng thẻ hoa trên, tôi không chỉ sử dụng khi dạy đèn chiếu mà tôi còn sử dụng trong các tiết dạy thông thường khi gặp các dạng bài trắc nghiệm hay chọn ý đúng /sai. Thay vì cho học sinh trả lời miệng cá nhân hoặc dùng bảng con để ghi đáp án thì tôi làm các thẻ đồ dùng này tổ chức cho học sinh giải quyết bài tập bằng cách đưa thẻ. Với cách làm này, giáo viên không chỉ kiểm tra được số lượng học sinh nắm được bài mà còn đỡ mất thời gian trong tiết học. Đặc biệt học sinh rất thích thú vì trên tay các em được cầm những bông hoa xinh xắn đủ màu sắc. Các mẫu đồ dùng được trình bày ở trên, tôi không chỉ sử dụng vào một hoạt động trong tiết học chính thức mà tôi còn sử dụng trong những tiết ôn toán, ôn tiếng Việt ở buổi dạy thứ hai. Ngoài việc củng cố và kiểm tra kiến thức của học sinh bằng cách cho các em làm bài tập vào vở, tôi còn tổ chức cho các em chơi trò chơi: “Trang trí thành khu vườn”, “Vịt xuống ao”, tạo nên không khí sôi nổi, thay đổi nếp học thầm lặng, tẻ nhạt mà học sinh phải học cả ngày. IV. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN Từ khi sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm trên vào các tiết học luyện tập thực hành, tôi thấy: Giờ học sôi nổi hơn, học sinh hứng thú học tập, phát huy được trí lực học sinh, học sinh tiếp thu bài tốt hơn, chất lượng học tập có nâng cao rõ rệt, góp phần phát triển nhân cách của học sinh. Các em mạnh dạn, tự tin, hiểu biết lẫn nhau, ham thích đi học. Mỗi ngày đi học thực sự là một ngày vui. Vì thế tôi đã mạnh dạn phổ biến đến cho giáo viên toàn khối 2 áp dụng giảng dạy. Kết quả đạt được tương đối khả quan. Tôi đã kiểm chứng kết quả qua ba lớp của khối 2, thực hiện dạy bài “Từ chỉ sự vật”, tổ chức cho học sinh làm bài tập dưới hình thức trò chơi “Trang trí thành khu vườn” như đã trình bày ở trên. Sau tiết học, tôi cho học sinh toàn khối 2 làm bài kiểm tra với yêu cầu như đã thực hiện ở phần khảo sát: Em hãy tìm từ chỉ sự vật trong câu văn sau: Bỗng có hai cậu bé đi vào vườn, cắt cả đám cỏ lẫn bông cúc đem về bỏ vào lồng sơn ca. Kết quả thu được như sau: Số em kiểm tra Đúng 6 từ Đúng 5 từ Đúng 4 từ Đúng 3 từ Đúng 2 từ Đúng 1 từ Không đúng từ nào 105 70 66.7% 30 28.6% 5 4.8% 0 0 0 Nhìn vào bảng trên, ta thấy chất lượng của khối lớp 2 có sử dụng đồ dùng dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh, kết quả cao hơn so với toàn khối lớp 2 năm trước dạy học theo hình thức thông thường. Chúng ta có thể vận dụng các đồ dùng dạy học này cho toàn khối lớp ở tiểu học. Giáo viên chỉ cần nghiên cứu kỹ bài học của khối lớp mình là áp dụng được. V. KẾT LUẬN Với số lượng đồ dùng phải làm như trên, chắc hẳn giáo viên sẽ cảm thấy khó mà thực hiện được. Nhưng thực ra các mẫu đồ dùng trên được làm trên vật liệu đơn giản với những vật gần gũi với học sinh cho nên chúng ta có thể huy động học sinh cùng làm. Giáo viên chỉ thiết kế mẫu, học sinh đồ theo mẫu và tô màu theo ý thích. Làm như vậy không chỉ giúp giáo viên đỡ tốn thời gian làm đồ dùng dạy học, tạo cho học sinh sự thích thú vì vẽ và tô màu là sở thích của trẻ em mà còn xây dựng được mối liên hệ giữa thầy và trò. Tất cả đồ dùng trên đều được ép nhựa nên có thể viết bằng bút lông và xóa đi, thời gian sử dụng được lâu dài. Như vậy việc tự làm đồ dùng dạy học để tạo hứng thú học tập, giúp cho học sinh tiếp thu nhanh và khắc sâu kiến thức thì không có gì là khó khăn. Để các đồ dùng dạy học làm ra được sử dụng một cách có hiệu quả, nâng cao chất lượng giờ lên lớp, đòi hỏi chúng ta phải đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu bài, phải biết kết hợp khéo léo trong giờ dạy và phân bố thời gian hợp lý thì mới vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh vừa làm cho tiết học đạt hiệu quả. Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi về việc tự làm và sử dụng đồ dùng dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Rất mong sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp. Xin chân thành cảm ơn. Người viết Trần Thị Quyền NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN bông huệ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_thon.doc

