Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một vài nét nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

doc 32 trang Bình Lê 08/01/2025 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một vài nét nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một vài nét nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một vài nét nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
CHUYÊN ĐỀ :
TÌM HIỂU MỘT VÀI NÉT NGHỆ THUẬT
TRONG "TRUYỆN KIỀU" CỦA NGUYỄN DU
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là một ngôi sao sáng nhất trong nền văn học cổ điển Việt Nam. Tác phẩm được xếp vào một trong những kiệt tác bất hủ của Văn học thế giới. Vị trí đó đã nói lên tất cả giá trị của " Truyện Kiều".
Xưa nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu phê bình lớn về " Truyện Kiều" và đã có không ít những cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau. Về nội dung tư tưởng còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng về nghệ thuật thì xưa nay ai ai cũng cho là tuyệt diệu.
Phải nói nét độc đáo nhất trong nghệ thuật " Truyện Kiều" là bút pháp xây dựng nhân vật. Với tài năng sáng tạo bậc thầy, Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống nhân vật đa dạng, phong phú và sinh động. Thành công của Nguyễn Du đã đánh dấu bước phát triển của nghệ thuật xây dựng nhân vật của loại hình tự sự trong Văn học Trung đại (đặc biệt là với thể loại Truyện Nôm), đồng thời cũng khẳng định sức sáng tạo tuyệt vời của Nguyễn Du trong quá trình chuyển đổi cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thành tác phẩm của mình.
 Trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn 9 hiện nay " Truyện Kiều" của Nguyễn Du có một vị trí không nhỏ. Có một bài giành riêng cho giới thiệu tác giả; tóm tắt, nêu giá trị tác phẩm và 5 đoạn trích. Qua thực tế giảng dạy và tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp đã từng giảng"Truyện Kiều", tôi thấy: khi tìm hiểu " Truyện Kiều" các đồng chí đều thiên về phân tích giá trị nội dung của các đoạn trích, còn việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật thì vẫn còn hời hợt chưa thực sự cho đây là một vấn đề quan trọng. Hơn nữa, đối với học sinh thì việc phân tích, tìm hiểu " Truyện Kiều" là một vấn đề tương đối khó, đòi hỏi có một kỹ năng học tập phù hợp, cụ thể với thực tiễn giảng dạy của đặc trưng bộ môn. Vì những lý do trên mà tôi quyết định chọn đề tài này. Trước hết là để tìm hiểu sâu sắc thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du trong " Truyện Kiều".
Hơn nữa tôi chọn chuyên đề này sẽ đóng góp một phần nhỏ bé về kinh nghiệm giảng dạy" Truyện Kiều", đồng thời giúp học sinh tìm hiểu, phân tích "Truyện Kiều" với cái nhìn toàn diện hơn.
II. ĐỐI TƯỢNG - PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu: Một số nét nghệ thuật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
2. Phạm vi nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong " Truyện Kiều" và một vài nét sáng tạo về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và xây dựng nhân vật của Nguyễn Du trong " Truyện Kiều".
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng các phương pháp sau:
1- Phương pháp thống kê.
- Bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều chủ yếu tập trung ở đoạn trích"Cảnh ngày xuân", "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
- Thế giới nhân vật trong Truyện Kiều đa dạng sinh động, đủ các loại người, chia làm hai tuyến nhân vật.
+ Tuyến nhân vật chính diện: Gia đình Thuý Kiều (Vương Ông, Vương Bà, Vương Quan, Thúy Kiều, Thuý Vân) Thuý Kiều, Từ Hải, sư Giác Duyên... 
+ Tuyến nhân vật phản diện: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Hoạn Thư, Sở Khanh, mụ mối, Hồ Tôn Hiến, Khuyển, Ưng....
+ Nhân vật trung gian: Thúc Sinh.
2- Phương pháp phân tích:
Tôi tiến hành tìm hiểu những thủ pháp nghệ thuật được Nguyễn Du sử dụng qua việc khảo sát, phân tích các bức tranh thiên nhiên, các khía cạnh: ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, dáng điệu, cử chỉ và nội tâm ở những nhân vật tiêu biểu.
3- Phương pháp so sánh:
Để làm nổi bật sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, tôi tiến hành so sánh Truyện Kiều với một số Khúc Ngâm, các truyện Nôm, đặc biệt là so sánh với "Kim Vân Kiều truyện" tác phẩm văn học Trung Quốc mà Nguyễn Du đã dựa vào cốt truyện đó để sáng tạo Truyện Kiều.
4- Phương pháp khái quát hoá.
Để có cái nhìn đúng đắn về giá trị nghệ thuật "Truyện Kiều" trong lĩnh vực miêu tả bức tranh thiên nhiên và xây dựng nhân vật, tôi sử dụng phương pháp khái quát hoá, rút ra những kết luận cần thiết từ những biểu hiện cụ thể.
PHẦN II: NỘI DUNG
I- BÚT PHÁP MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN KIỀU
1- Miêu tả thiên nhiên trực tiếp.
 Miêu tả là bút pháp khá quen thuộc đối với bất kỳ nhà văn hay nhà thơ nào dù ở nước ngoài hay trong nước. Nhờ bút pháp này mà nó làm cho mỗi bài văn, bài thơ thêm cụ thể hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn, hấp dẫn hơn. Có rất nhiều loại bút pháp miêu tả: Có thể là tả cảnh, có thể là tả người... có thể tả trực tiếp, có thể tả gián tiếp (mượn cảnh để tả tình) và không phải tác giả nào cũng thành công ở tất cả các loại bút pháp như vậy, nhưng riêng Nguyễn Du miêu tả là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc.
Trong chương trình Ngữ Văn 9 bậc Trung học cơ sở, những nét sáng tạo nghệ thuật độc dáo của Nguyễn Du được thể hiện cụ thể qua mỗi đoạn trích trong "Truyện Kiều".
- Ở phần đầu đoạn trích "Cảnh ngày xuân" Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp miêu tả thiên nhiên trực tiếp.
 "Ngày xuân con én đưa thoi,
 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
 Cỏ non xanh tận chân trời,
 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
 Bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua, bay lại như "thoi đưa". Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ "đưa thoi" rất gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vút qua, vút lại chao liệng như muốn nói thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh, ngày vui trôi rất nhanh.
Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục đã ngoài 60". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi nhân xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão" (Ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi, còn là "xuân hồng" (Xuân Diệu), "Mùa Xuân chín" (Hàn Mạc Tử) ...với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba, "thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hai chữ "thiều quang" gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao là của đất trời. Nếu hai câu thơ trên là thời gian, là không gian xuân thoáng đạt, thì hai câu dưới là bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân.
 "Cỏ non xanh tận chân trời,
 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo liên thiên bích - lê chi sổ điểm hoa": Hai chữ "Trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: Thảm cỏ xanh non trải rộng tới chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hoà đến tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi giàu sức sống.
Như vậy, bằng vài nét chấm phá, miêu tả bậc thầy "Cảnh ngày xuân" trở thành bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời, điểm tô cho cuộc sống của mỗi chúng ta. Phải chăng thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân tuyệt đẹp này:
 "Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,
 Tháng giêng hai vút trời bay cánh én..."
 ("Ý nghĩ mùa xuân")
Đó là bức tranh xuân được Nguyễn Du cảm nhận vào buổi sáng, còn bức tranh xuân trong buổi chiều thì sao?
2- Bút pháp tả cảnh ngụ tình:
- Tả cảnh ngụ tình là bằng việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên hoặc cuộc sống xung quanh để từ đó khắc họa tâm trạng, suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể trữ tình. Có thể thấy, ngụ tình mới là chính còn cái cảnh chỉ nhằm làm nổi bật cái tình.
Thi nhân xưa thường hay mượn cảnh để tả tình, nhìn cảnh mà thấy được tình. Trong bức tranh "Cảnh ngày xuân" cũng vậy:
 "Tà tà bóng ngả về tây,
 Chị em thơ thẩn dan tay về. 
 Bước dần theo ngọn tiểu khê,
 Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
 Nao nao dòng nước uốn quanh,
 Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."
Bức tranh ở đây không còn tươi rói, tinh khôi nữa mà dường như đã nhuốm màu tâm trạng. Nguyễn Du thật khéo khi miêu tả thiên nhiên, vẫn là cây cầu nhỏ, khe nước nhỏ, vẫn là cái thanh, cái dịu của mùa xuân, nhưng ông đã tả chúng dưới một góc nhìn khác, một thời điểm khác, nên giữa cảnh và tình có sự giao hoà đồng điệu với nhau. (Trong cái "nao nao" của dòng nước như có cả cái nao nao của lòng Kiều vì sự linh cảm).
Nguyễn Du dùng hàng loạt từ láy để tả sắc thái cảnh vật và tâm trạng của nhân vật: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, ta như thấy được cảm giác bâng khuâng, xao xuyến của chị em Thúy Kiều trên đường trở về sau một ngày du xuân.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình ta không chỉ gặp trong "cảnh ngày xuân" mà ta còn thấy trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
 "Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
 Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
 Bốn bề bát ngát xa trông,
 Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia."
Bức tranh lầu Ngưng Bích có những cồn cát nhấp nhô, bát ngát, những bụi sắc đỏ thổi bốc lên và xa xa là những dãy núi non trùng điệp và có cả ánh trăng. Cảnh thiên nhiên mêng mông, vắng lặng, trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm trạng, nỗi buồn, niềm cô đơn buồn tủi của nàng Kiều. Kiều buồn mà trông nên trông gì cũng thấy buồn. Một nỗi buồn triền miên không lối thoát. Tám câu cuối cùng của đoạn trích là một bức tranh tâm tình. Mỗi cặp câu là một bức tranh phong cảnh nhỏ trong bức tranh tâm tình rộng lớn.
- Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được diễn tả nổi bật qua biện pháp tu từ điệp ngữ. Điệp từ “buồn trông” được sử dụng bốn lần ở bốn câu lục trong những cảnh khác nhau nhằm biểu đạt cảm xúc, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. 
+ “Buồn trông” là buồn mà nhìn xa trông ngóng một cái gì đó mơ hồ, vô vọng. 
+ Điệp từ này được kết hợp với những hình ảnh đứng sau nó như : cửa bể, cánh buồm, ngọn nước, hoa trôi.. vừa gợi thân phận cô đơn, lênh đênh trôi dạt, vừa diễn tả nỗi buồn ngày càng chồng chất, tăng tiến, ghê gớm, mãnh liệt hơn.
+ Điệp từ “buồn trông” còn kết hợp với các từ láy “xa xa, thấp thoáng, rầu rầu, xanh xanh..” tạo nên nhịp điệu ào ạt của cơn sóng lòng trầm buồn, dữ dội, xô nỗi buồn đến tuyệt vọng.
=> Phép điệp ngữ tác động mạnh đến cảm xúc của người đọc nhấn mạnh tâm trạng cô đơn, đau khổ, tuyệt vọng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. 
* Bức tranh thứ nhất :
“ Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm ra xa”.
- Kiều trông về phía cửa biển lúc chiều hôm, lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn lại ánh sáng thóp cuối cùng. Nhìn về cửa bể tức là nhìn thấy dải bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy trống vắng mênh mông, một bầu trời đang tối dần. Trên cái nền ấy xuất hiện hình ảnh “ thuyền ai” - một con thuyền lẻ loi đơn độc.
- Cái hay của hai câu thơ là sử dụng từ láy có giá trị biểu cảm cao: Từ láy “Thấp thoáng” gồm hai âm “ ấp”, “ oáng” (một âm đóng và một âm mở) diễn tả cánh buồm mờ nhạt, chợt ẩn, chợt hiện như mơ hồ, như ảo ảnh.Từ láy “Xa xa” không chỉ gợi hình mà còn gợi tình, gợi sự lẻ loi, đơn chiếc, lênh đênh của cánh buồm, gợi nhớ quê hương, người thân.
- “Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên của bể là một hình ảnh ẩn dụ về cuộc sống lẻ loi, đơn chiếc của Thúy Kiều, cũng lênh đênh không biết đâu là bến bờ (thuyền trôi vô định, thấp thoáng -> số phận mong manh).
Hai câu thơ mang âm hưởng buồn, phảng phất cách diễn đạt trong ca dao:
“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.
Hay : “ Chiều chiều ra đứng bờ sông,
Trông về quê mẹ mà không có đò”.
* Bức tranh thứ hai :
“ Buồn trông ngọn nuớc mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?”
- Trước mắt Kiều là một ngọn nước đổ từ trên cao xuống cuốn theo cánh hoa trôi nổi, vùi dập không biết đi đâu, về đâu.
- Cái hay của câu thơ là cách dùng từ láy “ man mác”, nếu viết “ tan tác” thì nói cánh hoa tan đi, vỡ đi, chìm lấp những cánh hoa mỏng manh, nhưng nói “ Hoa trôi man mác” là hình ảnh cánh hoa bập bềnh, trôi nổi, đưa đi, đẩy lại lênh đênh. 
+ Hình ảnh hoa trôi dễ gợi cảm và làm rung động lòng người. Hình ảnh “ hoa trôi bèo dạt” thường nói về kiếp người trôi nổi, bấp bênh.
- Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” + câu hỏi tu từ “ Hoa trôiđâu” gợi thân phận mỏng manh, yếu đuối như cánh hoa mặc cho dòng đời xô đẩy, biết trôi dạt về đâu ? Hình ảnh “ Hoa lìa cánh” như Kiều lìa xa tổ ấm gia đình.
* Bức tranh thứ 3 :
“ Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
- Một khung cảnh mênh mông, hoang vắng: Một đồng cỏ phẳng lặng kéo dài mãi cuối tầm nhìn. Nội cỏ  rầu rầu  gợi lên những ngọn cỏ lưa thưa, ủ ê, héo hắt, đang mất dần sự sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân đầy sức sống mà Kiều gặp trong tiết thanh minh: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Đây là đồng cỏ cuối mùa đang ủ ê, héo hắt kéo dài vô tận thành một màu xanh duy nhất xanh xanh - màu xanh nhợt nhạt, xa xôi - màu tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đau thương của Thuý Kiều.
- “Nội cỏ rầu rầu” là một ẩn dụ gợi tâm trạng buồn rầu, gợi lên cuộc sống tàn lụi, cạn kiệt sức sống.
* Bức tranh thứ 4 : 
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
- “Mặt duềnh” là vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn. Sóng vỗ ầm ầm - sóng gào thét cuồng nộ, đập vào bờ, xô đập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào đến lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng gào thét cuồng nộ trên biển khơi vang đi rất xa. Kiều tưởng mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa mà ngồi chính giữa duềnh biển khơi mênh mông ấy, bốn bên là sóng vỗ.
- “Sóng kêu” được nhân hoá như tiếng kêu của con người. “Sóng kêu” là ẩn dụ đó là tiếng kêu thương của Kiều trước một tương lai đầy giông tố sắp vây bủa, vùi dập đời Kiều. Tám câu cuối, điệp ngữ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại bốn lần ở đầu các câu lục có tác dụng tạo nhạc tính gợi âm điệu buồn thương thê thiết và nhấn mạnh tâm trạng tê tái đau thương: Thương mình, thương người thân...
Như vậy, bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài hoa, độc đáo, Nguyễn Du đã khắc hoạ được một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh, trong đó nổi lên tâm trạng nàng Kiều bề bộn bao nỗi buồn đau, chua xót, lo sợ, vô vọng... 
II- NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG "TRUYỆN KIỀU" CỦA NGUYỄN DU:
1- MIÊU TẢ NHÂN VẬT QUA NGOẠI HÌNH.
1.1- Bút pháp tương trưng, ước lệ.
Đây là một loại bút pháp khá quen thuộc của văn học cổ Việt Nam được thể hiện rõ ở những nhân vật chính diện. 
- Bút pháp tương trưng, ước lệ là sử dụng những quy ước trong biểu hiện nghệ thuật như dùng hình tượng thiên nhiên "trăng","hoa","ngọc","tuyết"... để nói về vẻ đẹp của con người. Nghiêng về nghệ thuật gợi, tác động tới người đọc thông qua sự phán đoán,trí tưởng tượng chứ không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ..
Trong "Truyện Kiều" ngoại hình nhân vật là những qui phạm, những hình ảnh, chữ nghĩa có sẵn, tiêu biểu là trong nghệ thuật miêu tả: Thuý Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng, Từ Hải.
Trong đoạn trích "Chị em Thuý Kiều", trước khi miêu tả vẻ đẹp của từng người, Nguyễn Du đem đến cho chúng ta những cảm nhận chung về vẻ đẹp của hai chị em. Đúng là những trang tuyệt sắc giai nhân:
"Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Bút pháp ở đây mang tính ước lệ, tượng trưng, tác giả mượn vẻ đẹp của tự nhiên để nói lên vẻ đẹp của con người, cả hai chị em đều có vóc dáng thanh tao, tâm hồn trong trắng như tuyết. Song mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng và đều đạt đến độ hoàn mỹ "mười phân vẹn mười".
Ở đây Thuý Vân là:
"Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da."
Không chỉ tươi tắn trẻ trung mà còn kiều diễm. Nguyễn Du lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho sắc đẹp của con người. Ở đây, Thuý Vân được so sánh với trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc - những biểu tượng của thiên nhiên. Thuý Vân khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn, sáng đẹp như trăng rằm, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà óng ả hơn mây, da trắng hơn tuyết. Đó là vẻ đẹp của một cô gái phúc hậu, đoan trang, một vẻ đẹp khiến thiên nhiên phải nhún nhường, phải chịu thua bức chân dung đẹp và có hồn, vừa bộc lộ tính cách, vừa dự báo số phận nhân vật: một tương lai êm đềm, hạnh phúc sẽ đến với Thuý Vân, chỉ có thể có được ở con người mắt nhìn người sâu sắc và nghệ thuật miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du.
Chân dung Thuý Kiều nổi bật trên nền chân dung Thuý Vân:
 "Kiều càng sắc sảo mặn mà,
 So về tài sắc lại là phần hơn.
 Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
 Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".
Thuý Vân đã được miêu tả như một cô gái đẹp hoàn hảo. Thuý Kiều vượt lên trên cái đẹp hoàn hảo ấy để trở thành một cái đẹp tuyệt đỉnh. Vẫn bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng, khi tả Thuý Kiều, Nguyễn Du chuyển sang chấm phá theo kiểu "điểm nhãn", cốt nêu bật cái thần của vẻ đẹp Thuý Kiều, tập trung vào đôi mắt:
"Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".
Đôi mắt Kiều được ví như " làn nước mùa thu", làn nước mùa thu vừa trong sáng, vừa long lanh, vừa dợn sóng, lại được ẩn dưới nét lông mày thanh tú, mền mại như dẫy núi mùa xuân, càng thêm cái hài hoà kiều diễm. Quả là, Kiều có vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" nàng không chỉ là bậc mĩ nhân có thể khiến cho"thành nghiêng nước đổ " nàng còn có sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân khiến cho thiên nhiên phải nhường nàng, thì vẻ đẹp của Thuý Kiều làm cho hoa cũng phải "ghen", liễu cũng phải "hờn".
Ca dao từng có câu:
"Một vừa hai phải ai ơi,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen".
Nguyễn Du cũng linh cảm như vậy về số phận nàng Kiều và ông đã lồng sự linh cảm đó trong bút pháp tài hoa miêu tả nàng. Vẻ đẹp của nàng đã làm cho tạo hoá thiên nhiên phải ghen ghét đố kị nên số phận nàng sẽ có éo le, đau khổ, gian truân...
Nhân vật tiếp theo cũng được Nguyễn Du miêu tả với ước pháp ước lệ, tượng trưng là Kim Trọng được miêu tả với nét bút phác hoạ về các phương diện cần thiết khi nói đến một nhân vật thư sinh phong kiến: con tuấn mã; chú tiểu đồng, trang phục, danh tính, gia thế tài năng, học thức. Chàng xuất hiện :
" Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
...........
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa."
Nguyễn Du đã giành cho chàng những ngôn ngữ đẹp nhất, trang trọng nhất, những tình cảm ưu ái nhất khi nói về chàng. Chàng không những là người phong nhã, thanh lịch mà còn có một xuất thân quyền quý "nhà trâm anh", "nền phú hậu", một người có sự phú bẩm rộng rãi của tạo hoá, sự phong phú về tài hoa, trí tuệ "phong tư tài mạo" cũng như trong ứng xử tuyệt vời của chàng. Chàng được xây dựng như một người mẫu lý tưởng.
Và đây, nhân vật Từ Hải, một nhân vật xuất hiện trước mắt mọi người và Thuý Kiều với tầm vóc, dung mạo khác thường:
 "Râu hùm, hàm én, mày ngài,
 Vai năm tấc rộng thân mười thước cao".
Ngôn ngữ miêu tả ngoại hình ở đây cũng không vượt ra ngoài tính chất công thức ước lệ với những chi tiết đã được quan niệm thẩm mỹ phong kiến quy định cho loại nhân vật anh hùng. Nguyễn Du đã khắc hoạ nhân vật bằng những nét khoẻ mạnh, cao lớn, đường bệ lẫm liệt đã nói lên vẻ phi thường, vẻ hơn đời của Từ Hải.
 "Đường đường một đấng anh hào,
 Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài"
Vẻ đẹp của Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả với những từ tôn xưng: Đấng anh hào; những từ có khí phách mạnh mẽ: Đường đường, hơn sức, gồm tài, đội trời, đạp đất, vẫy vùng...
Nói tóm lại, cũng là bút pháp ước lệ, tượng trưng, nhưng mỗi nhân vật lại có một nét khác biệt trong tính cách: Thuý Vân đoan trang phúc hậu; Thuý Kiều sắc sảo mặn mà, Kim Trọng hoà hoa phong nhã; Từ Hải gắn với tính cách phi thường của bậc anh hùng hảo hán. Tất cả những nhân vật chính diện này Nguyễn Du đều giành cho họ những tình cảm trân trọng, đẹp đẽ, ông dùng những từ ngữ đẹp nhất để ngợi ca họ.
- Cái hay của bút pháp ước lệ tượng trưng là biểu hiện quan niệm của người xưa về cái đẹp trong nghệ thuật. Nó có đặc điểm diễn đạt bóng bẩy, trang nhã, thâm thúy dễ gửi gắm tình cảm của nhà thơ.
- Hạn chế của bút pháp ước lệ tượng trưng là dựa vào khuôn mẫu có sẵn bỏ đi các chi tiết thật của đời sống dễ trở thành khuôn sáo, cầu kì. 
- Ngày nay các nhà văn nhà thơ th

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tim_hieu_mot_vai_net_nghe_thuat_trong.doc