Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động để dạy giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động để dạy giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động để dạy giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5
I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài: Môn Toán ở tiểu học giúp học sinh: - Có những kiến thức cơ bản, nền tảng về toán học - Hình thành những kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải các bài toán có những ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. - Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần bước đầu hình thành phương pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Hiện nay có nhiều giải pháp đã và đang được nghiên cứu, áp dụng để góp phần thực hiện mục tiêu trên. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh cũng là một trong những giải pháp được nhiều người quan tâm nhằm đưa các hình thức dạy học mới vào nhà trường. Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, môn toán ở Tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng cần có một phương pháp dạy học cụ thể phù hợp với từng loại toán. Cũng như các môn học khác, theo tôi muôn toán có một vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người lao động. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải xác định dạy như thế nào để đạt được chất lượng cao môn toán 5 mà chương trình nội dung sách quy định? Qua những năm giảng dạy, tôi nhận thấy việc rèn kỹ năng giải toán (nhất là toán chuyển động đều) cho học sinh là rất quan trọng bởi vì qua giải toán học sinh rèn luyện được đức tính, ý chí khắc phục khó khăn, thói quen xét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, cụ thể, chu đáo, làm việc có kế hoạch và khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt...Tuy nhiên không phải mọi học sinh đều học tập, giải toán dễ dàng như nhau. Có những học sinh nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc mà không cần có sự cố gắng đặc biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả như vậy mặc dù các em đã có cố gắng rất nhiều. Đó chính là các em yếu kém về môn toán. Xét riêng về loại toán chuyển động đều ở lớp 5, ta thấy đây là loại toán khó, rất phức tạp, phong phú đa dạng và có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống. Mặt khác việc hình thành, rèn luyện, củng cố các kỹ năng giải toán chuyển động đều gần như là chưa có nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế rất cần phải có phương pháp cụ thể đề ra để dạy giải các bài toán chuyển động đều nhằm đáp ứng các nội dung bồi dưỡng nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh. Đã có những cuốn sách viết về loại toán chuyển động đều, song những cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở mức độ hệ thống hoá các bài tập (chủ yếu là bài tập khó) cho nên sách mới chỉ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học sinh giỏi. Còn lại những tài liệu khác, toán chuyển động đều có được đề cập đến nhưng rất ít, chưa phân tích một phương pháp cụ thể nào trong việc dạy giải các bài toán chuyển động đều này. Trước ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề nêu trên; là một giáo viên đang trực tiếp dạy lớp 5, tôi đã chọn và áp dụng cho mình một phương pháp dạy học phù hợp để dạy loại toán chuyển động đều. Đó là: "Vận dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động để dạy giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5" I2. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài : Giải toán chuyển động đều là một dạng toán quan trọng được trình bày ở sách toán lớp 5. Đây là một nội dung cung cấp cho học sinh những kiến thức về giải toán chuyển động đều có một động tử và nhiều động tử. Những nội dung cơ bản của việc cung cấp kiến thức mới của môn toán học, một yếu tố hết sức quan trọng trong chương trình,bởi thông qua nó học sinh sẽ nắm được căn bản về toán chuyển động và ứng dụng nó vào trong cuộc sống hằng ngày. Có thể khẳng định rằng nội dung này chính là bước đệm quan trọng để học sinh ứng dụng vào việc tiếp thu các nội dung quan trọng khác mà chương trình đã đưa ra. Chính vì thế, mục tiêu của đề tài là khảo sát thực tế việc nắm bắt cách giải của học sinh lớp 5A về toán chuyển động đều, từ đó giáo viên có cơ sở để đề xuất những biện pháp nhằm giúp các em khắc phục được những thiếu sót trong giải toán chuyển động đều. Nhiệm vụ của đề tài gồm: - Khảo sát thực tế việc giải toán chuyển động đều của học sinh lớp 5A. - Nghiên cứu lý luận vè các biện pháp giải phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp (giỏi, khá, trung bình và yếu) - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán phần chuyển động đêu cho học sinh lớp 5. I. 3) Đối tượng nghiên cứu : - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 5A trường Tiểu học . I.4) phạm vi nghiên cứu: Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi trường tiểu học. I.5) Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp phân tích : Tiến hành thu nhập các số liệu trong những điều kiện đã có, phân tích các yếu tố cơ bản của vấn đề nghiên cứu. Phương pháp điều tra khảo sát: Tiến hành điều tra, khảo sát các nội dung dạy học của phần toán chuyển động đều. Phương pháp đọc sách và tài liệu: Nắm bắt được vấn đề mà đề tài đề cập đã được giải quyết đến đâu, cung cấp cho chúng em những cơ sở lý luận của đề tài, các luận chứng để lý giải kết quả của đề tài. Phương pháp xử lý: Phân tích định tính và định lượng kết quả nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp. Dựa trên kết quả khảo sát và phân tích giữa nội dung dạy học theo chương trình hiện hành để đưa ra những biện pháp giúp học sinh học tốt phần toán chuyển động đều nói riêng và môn Toán nói chung.. Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một cố phương pháp khác nhằm bổ sung cho vấn đề cần nghiên cứu. PHẦN NỘI DUNG 1/ CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1.1/ Vai trò dạy học toán ở bậc tiểu học: Dạy học giải toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú, những vấn đề thường gặp trong đời sống. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Vì giải toán là một hoạt động bao gồm những thao tác : Xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái cần tìm, trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời câu hỏi đúng bài toán. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. 1.2/ Mục đích của dạy học giải toán ở tiểu học: Giúp học sinh tự mình tìm hiểu dược mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm, mô tả mối qua hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Để đạt được mục đích trên, giáo viên phải: -Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính,các thuật ngữ. -Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. -Tổ chức rèn luyện kĩ năng giải toán. - Rèn luyện năng lực khái quát hoá giải toán (Dành cho học sinh khá giỏi) * Giải bài toán có nhiều cách giải khác nhau. * Làm quen với các bài toán thiếu hoặc thừa dữ liệu. * Giải các bài toán trong đó phải xét tới nhiều khả năng xảy ra để chọn được khả năng thích hợp với bài toán. * Lập và biến đổi bài toán dưới nhiều hình thức. 2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY MÔN TOÁN LỚP 5: a. Thuận lợi – Khó khăn: * Thuận lợi: Ở lớp 5A đa số học sinh ngoan, lễ phép biết vâng lời thầy cô giáo và đoàn kết với bạn trong lớp học. Số lượng học sinh giỏi chiếm tỷ lệ cao, các em rất mạnh dạn và tự tin trước tập thể. Điều này rất thuận lợi cho việc giáo viên áp dụng phương pháp chung vào các đối tượng học sinh. * Khó Khăn: Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn nhất định như số học sinh có hoàn cảnh gia đình nghèo trong lớp chiếm tỷ lệ khá cao, một số gia đình phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình. Dẫn đến các em còn nhút nhát chưa thật mạnh dạn trong việc cùng với bạn tham gia phát biểu xây dựng bài, góp ý cho nhóm để hoàn thành nhiệm vụ. b. Thành công – Hạn chế: * Thành công Trong phần giải toán chuyển động đều ở lớp 5 giúp học sinh biết cách giải một bài toán dạng chuyển động đều từ dạng một phép tính cho đến dạng toán nhiều phép tính từ đó các em có tính suy luận sang cách giải các dạng toán khác như toán Tổng – Tỷ, toán tính tuổi, v.v * Hạn chế : Toán chuyển động đều đòi hỏi học sinh phải động não nhiều, tập trung tốt đối với các dạng toán có từ hai phép tính trở lên, vì thế các em thường nản và không đam mê, dẫn đến giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao chất lượng đại trà của cả lớp. d. Các nguyên nhân: Nếu muốn giải được một bài toán thành công, học sinh phải tuôn thủ các bước chắt chẽ trong phương pháp giải toán. Ví dụ: - Trong mỗi công thức trên, các đại lượng phải sử dụng trong cùng một hệ thống đơn vị đo. Chẳng hạn: + Nếu đơn vị đo quãng đường là km, đơn vị đo thời gian là giờ thì đơn vị đo vận tốc là km/giờ + Nếu đơn vị đo quãng đường là km, đơn vị đo thời gian là phút thì đơn vị đo vận tốc là km/phút. + Nếu đơn vị đo quãng đường là m, đơn vị đo thời gian là phút thì đơn vị đo vận tốc là m/phút. + Nếu đơn vị đo quãng đường là m, đơn vị đo thời gian là giây thì đơn vị đo vận tốc là m/giây. - Khi giải toán có lời văn nói chung và toán chuyển động đều nói riêng, yêu cầu bắt buộc học sinh phải tuân thủ theo 4 bước. + Đọc bài toán + Phân tích bài toán + Lập kế hoạch giải và thực hiện kế hoạch giải + Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải Chính vì vậy mà các em thương bỏ sót nhiều bước trong việc giải một bài toán chuyển động đều nói riêng và các dạng toán của môn toán lớp 5 nói chung. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra : Chúng ta cần tạo cho trẻ em nói và tư duy theo kiểu toán học vì chỉ đưa ra các biểu trưng và thuật ngữ toán học thì chưa đủ. Trẻ cần có cơ hội và nói chuyện với nhau về toán học. Điều đầu tiên là trẻ phải có các kỹ năng đọc để học toán. Nhiều trẻ gặp khó khăn trong môn toán do phức tạp của từ ngữ nhiều hơn là chính các bài toán đó. Nên đối với học sinh các kỹ năng đọc là rất cần thiết giúp học sinh giải bài toán. Đọc không phải là yêu cầu học sinh đọc to một từ mà là đọc và hiểu. Học sinh cần phải có khả năng đọc được các câu hỏi về toán, hiểu chúng và cuối cùng là giải các bài toán đó. Vì vậy giáo viên phải giúp học sinh hiểu nội dung bài toán. Giáo viên cần trình bày nội dung môn toán theo trình độ ngôn ngữ mà trẻ có thể đọc và hiểu được. Tuy nhiên việc đọc, nghe, nói của các em chưa đủ để học giải toán. Các em cần phải biết những điều các em nói, nghe, đọc và hiểu. Do đó các em cần phải biết dùng bút để viết các con số, các ký hiệu và ghi lại các thao tác giải toán, các em cần phải biết viết các bài toán cũng như biết vẽ hình. Do đó bạn cần phát triển kỹ năng viết bằng cách khuyến khích các em viết về các tư duy, ý tưởng toán học có sử dụng ngôn ngữ toán học phù hợp. Do vậy khi dạy giải toán cần thực hiện các bước sau: * Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề bài - Đây là bước quan trọng đầu tiên khi giải toán, cần phải giúp học sinh tìm hiểu kỹ đầu bài toán : Xác định nội dung, yêu cầu của bài toán (bài toán thuộc dạng nào? Cho biết gì, yêu cầu gì?) Ví dụ : Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc theo dự tính là 12 km/giờ. Nếu người đó đi với vận tốc 15 km/giờ thì đến B sớm được 1 giờ. Hỏi thời gian người đó đi đến B theo vận tốc dự tính? Như vậy qua bài toán trên, ở bước 1 ta hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài (đọc nhiều lần để xác định nội dung, yêu cầu của bài toán) + Bài toán thuộc dạng nào? (Bài toán thuộc dạng chuyển động có 1 động tử tham gia) + Bài toán cho biết điều gì? (Bài toán cho biết vận tốc đi của người đó theo dự tính là 12 km/giờ và giả thiết nếu đi với vận tốc 15 km/giờ thì đến sớm hơn 1 giờ) + Bài toán yêu cầu gì : (Bài toán yêu cầu tìm thời gian người đó đi đến B theo vận tốc dự tính 12 km/giờ) * Bước 2: Lập kế hoạch giải - Đây là bước quan trọng thứ hai : Phân tích và tóm tắt bài toán (dựa vào yêu cầu của bài toán để tóm tắt nội dung cho phù hợp với yêu cầu) + Phân tích các yếu tố liên quan đến bài toán : Tỉ số vận tốc dự tính với vận tốc giả thiết nêu ra : 12/15, nếu người đó đi với vận tốc 15 km/giờ đến sớm hơn 1 giờ nghĩa là ứng với quãng đường : 12x1 = 12 (km). Như vậy cứ một giờ thì người đó đi theo dự tính sẽ chậm 15 – 12 = 3 (km) mà quãng đường đi chậm hơn là 12 km. + Tóm tắt bài toán : V1 dự tính : 12km/giờ V2 giả thiết : 15 km/giờ ( sớm hơn 1 giờ Tính t theo v dự tính ? * Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải - Bước quan trọng thứ 3 là thực hiện đúng kế hoạch giải toán : Nhắc lại công thức của dạng toán theo đề bài, tìm những dữ kiện liên quan đến nội dung bài giải, thực hiện các bước giải theo thứ tự yêu cầu Sau khi đã phân tích kỹ nội dung và các dữ kiện liên quan đến bài giải, đồng thời đã tóm tắt bài toán, ta tiến hành hướng dẫn học sinh nhớ lại công thức tính vận tốc (v=), quãng đường (s=vxt)và thời gian(t = ) rồi giải như sau : Quãng đường chênh lệch giữa dự tính với giả thiết là : 12 x 1 = 12 (km) Quãng đường chênh lệch trên mỗi giờ giữa dự tính với giả thiết là: 15 - 12 = 3 (km) Thời gian người đó đi theo giả thiết 15 km/giờ hết : 12 : 3 = 4 (giờ) Vậy thời gian người đó đi theo dự tính là : 4 + 1 = 5 (giờ) Đáp số : 5 giờ * Bước 4: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. - Bước cuối cùng của bài toán là kiểm tra lời giải, các bước đã thực hiện trong bài : cần phải dò lại từng bước đã thực hiện từ lời giải đến phép tính. Sau khi đã giải xong bài toán, để đảm bảo cho kết quả đã tính là đúng hay chưa, ta cần hướng dẫn học sinh cách kiểm tra bài giải: Vẽ lại sơ đồ sau khi đã tìm ra thời gian : V1=15/km/giờ V2=12km/giờ 15 x 4 = 60 km Như vậy căn cứ vào sơ đồ, ta tính được : + Nếu người đó đi với vận tốc 15 km/giờ thì hết thời gian (60:15=4 giờ) + Nếu người đó đi với vận tốc 12 km/giờ thì hết thời gian (60:12=5 giờ) So sánh giữa 2 vận tốc là lệch nhau 1 giờ, đúng với chi tiết bài toán đã cho. Ta kết luận bài giải trên đã đúng với đề bài. Cách giải hợp lý đúng phương pháp và công thức. Trong dạy học giải toán, các yêu cầu cơ bản được sắp xếp có chủ định trong từng lớp, tạo thành một hệ thống các yêu cầu từ thấp đến cao, từ lớp 1 đến lớp 5 trong sự kết hợp chặt chẽ với lý thuyết trong chương trình và sách giáo khoa. Nhiều yêu cầu cơ bản của giải toán được trải ra ở nhiều lớp, nên việc nắm chắc yêu cầu ở từng lớp là rát quan trọng. Đặc biệt giáo viên phải nắm vững trình độ chuẩn của dạy giải toán ở từng lớp. Chúng ta cần tạo cho trẻ em nói và tư duy theo kiểu toán học vì chỉ đưa ra các biểu trưng và thuật ngữ toán học thì chưa đủ. Trẻ cần có cơ hội và nói chuyện với nhau về toán học. Điều đầu tiên là trẻ phải có các kỹ năng đọc để học toán. Nhiều trẻ gặp khó khăn trong môn toán do phức tạp của từ ngữ nhiều hơn là chính các bài toán đó. Nên đối với học sinh các kỹ năng đọc là rất cần thiết giúp học sinh giải bài toán. Đọc không phải là yêu cầu học sinh đọc to một từ mà là đọc và hiểu. Học sinh cần phải có khả năng đọc được các câu hỏi về toán, hiểu chúng và cuối cùng là giải các bài toán đó. Vì vậy giáo viên phải giúp học sinh hiểu nội dung bài toán. Giáo viên cần trình bày nội dung môn toán theo trình độ ngôn ngữ mà trẻ có thể đọc và hiểu được. Tuy nhiên việc đọc, nghe, nói của các em chưa đủ để học giải toán. Các em cần phải biết những điều các em nói, nghe, đọc và hiểu. Do đó các em cần phải biết dùng bút để viết các con số, các ký hiệu và ghi lại các thao tác giải toán, các em cần phải biết viết các bài toán cũng như biết vẽ hình. Do đó bạn cần phát triển kỹ năng viết bằng cách khuyến khích các em viết về các tư duy, ý tưởng toán học có sử dụng ngôn ngữ toán học phù hợp. Do vậy khi dạy giải toán cần chú ý tới các điểm sau: + Sự hiểu biết của học sinh đối với bài toán. + Ngôn ngữ toán học dùng trong các bài toán. + Khả năng đọc của học sinh. Vì thế cần có ba mức độ trong việc tổ chức dạy học giải toán: + Mức độ 1: Hoạt động chuẩn bị cho giải toán. + Mức độ 2: Hoạt động làm quen với giải toán. + Mức độ 3: Hoạt động hình thành kĩ năng giải toán. II.3. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP: a. Mục tiêu của giải pháp: Sau khi nghiên cứu lý thuyết về các nội dung bài học trong phần giải toán chuyển động đều đồng thời nghiên cứu các hình thức dạy học của chương trình dạy học môn Toán. Tôi trình bày mộ số biện pháp giúp học sinh cách giải các dạng toán chuyển động đều dựa trên phương pháp tích cực hóa hoạt động. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: Chuyển động đều là dạng toán về các số đo đại lượng. Nó liên quan đến 3 đại lượng là quãng đường (độ dài), vận tốc và thời gian. Bài toán đặt ra là: Cho biết một số trong các yếu tố hay mối liên hệ nào đó trong chuyển động đều. Tìm các yếu tố còn lại. Vì vậy, mục đích của việc dạy giải toán chuyển động đều là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa đại lượng đã cho và đại lượng phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Để thực hiện mục đích trên, giáo viên cần thực hiện các yêu cầu sau: - Tự giải bài toán bằng nhiều cách (nếu có). - Dự kiến những khó khăn, sai lầm của học sinh. - Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm, thuật ngữ và thực hiện các bước giải bài toán chuyển động đều. - Rèn luyện cho học sinh khá, giỏi năng lực khái quát hoá giải toán. Cụ thể như sau * Khâu giải toán: Là khâu quan trọng trong quá trình chuẩn bị dạy giải bài toán của người giáo viên. Chỉ thông qua giải toán, giáo viên mới có thể dự kiến được những khó khăn sai lầm mà học sinh thường mắc phải, và khi giải bài toán bằng nhiều cách giáo viên sẽ bao quát được tất cả hướng giải của học sinh. Đồng thời hướng dẫn các em giải theo nhiều cách để kích thích lòng say mê học toán ở trẻ. * Dự kiến khó khăn sai lầm của học sinh: Đây là công việc không thể thiếu được trong quá trình dạy giải toán. Từ dự kiến những sai lầm của học sinh, giáo viên đặt ra phương án tốt giải quyết cho từng bài toán. Một số khó khăn, sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải loại toán này là: -Tính toán sai - Viết sai đơn vị đo - Nhầm lẫn giữa thời gian và thời điểm - Vận dụng sai công thức - Học sinh lúng túng khi đưa bài toán chuyển động ngược chiều (hoặc cùng chiều) lệch thời điểm xuất phát về dạng toán chuyển động ngược chiều (hoặc cùng chiều) cùng thời điểm xuất phát. - Câu lời giải (lời văn) không khớp với phép tính giải: * Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. - Tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung bài toán bằng các thao tác. + Đọc bài toán (đọc to, đọc thầm, đọc bằng mắt). + Tìm hiểu một số từ, thuật ngữ quan trọng để hiểu nội dung, nắm bắt bài toán cho biết cái gì ? bài toán yêu cần phải tìm cái gì ? - Tìm cách giải bài toán bằng các thao tác: + Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ hoặc bằng lời (khuyến khích học sinh tóm tắt = sơ đồ) + Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt. + Lập kế hoạch giải bài toán: xác định trình tự giải bài toán, thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài toán đi đến các yếu tố đã cho. Xác lập mối quan hệ giữa các điều kiện đã cho với yêu cầu bài toán phải tìm và tìm được đúng phép tính thích hợp. - Thực hiện cách giải và trình bày lời giải bằng các thao tác: + Thực hiện các phép tính đã xác định (ra ngoài nháp) + Viết câu lời giải + Viết phép tính tương ứng + Viết đáp số - Kiểm tra bài giải: kiểm tra số liệu,kiểm tra tóm tắt,kiểm tra phép tính,kiểm tra câu lời giải, kiểm tra kết qủa cuối cùng xem có đúng với yêu cầu bài toán. * Rèn luyện năng lưc khái quát hóa giái toán : - Làm quen với các bài toán thiếu hoặc thừa dữ kiện. - Lập bài toán tương tự (hoặc ngược)với bài toán đã giải. - Lập bài toán theo cách giải cho sẵn. * Phương pháp giải Các bài toán có 1 chuyển động tham gia + Đây là dạng toán đơn giản, các lập luận trong đề bài chỉ có một yếu tố (người, xe máy, ô tô, tàu thuỷ, ca nô,) + Với bài toán này yêu cầu học sinh phải đọc kỹ đề bài (Đọc không phải là đọc to mà đọc để hiểu nội dung bài) + GV có nhiệm vụ giúp học sinh phân tích bài toán (tóm tắt, đặt câu hỏi gợi mở: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?,) VD 1: Một người chạy được 4
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_tich_cuc_hoa_hoat.doc

