SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt tiết Luyện viết đoạn theo chương trình sách Kết nối tri thức với cuộc sống
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt tiết Luyện viết đoạn theo chương trình sách Kết nối tri thức với cuộc sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt tiết Luyện viết đoạn theo chương trình sách Kết nối tri thức với cuộc sống

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN I.THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt tiết Luyện viết đoạn theo chương trình sách Kết nối tri thức với cuộc sống” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục Tiểu học 3.Tác giả: Họ và tên: Vũ Thị Yến Ngày/tháng/năm sinh: 09/12/1990 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên, trường Tiểu học Trấn Dương Điện thoại: 0947.102.204 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị:Trường Tiểu học Trấn Dương Địa chỉ: Xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Điện thoại: II.MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT Đổi mới giáo dục là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hiện nay của mỗi nhà trường, mỗi giáo viên. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ một nền giáo dục cung cấp kiến thức là chính sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành và phát triển các năng lực, phẩm chất, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Chương trình giáo dục 2018 đã chỉ rõ các nhóm năng lực chung và năng lực đặc thù cho mỗi môn học. Năng lực ngôn ngữ được hình thành và phát triển ở học sinh từ sớm, thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục. Nhưng ở trường Tiểu học môn Tiếng Việt giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh (HS). Năng lực này được cụ thể hóa ở năng lực ngôn ngữ nói và năng lực ngôn ngữ viết. Ở lớp hai, luyện viết đoạn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực đặc thù của môn Tiếng Việt nhưng lại là một hoạt động khó . Nó đòi hỏi ở người học sinh vốn sống hằng ngày, vốn từ ngữ phong phú, đôi mắt quan sát tinh tường, óc tưởng tượng sáng tạo... Bởi vậy, khi dạy hoạt động này giáo viên (GV) cần nắm rõ tâm lý lứa tuổi HS. Bởi ở lửa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp, bên cạnh còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức chậm, HS nghèo vốn từ ngữ, Điều này ảnh hưởng đến học tập nói chung, học Luyện viết đoạn nói riêng. Năm 2023-2024 là năm thứ ba triển khai dạy học theo chương trình Phổ thông 2018 đối với HS lớp 2. Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” đã thiết kế các hoạt động học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh và chủ động, sáng tạo của GV song khi triển khai hoạt động Luyện viết đoạn trong mỗi bài học còn chưa thực sự hiệu quả. Giáo viên thường hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn như sau: - Học sinh đọc thầm, xác định yêu cầu của đề bài. - Giáo viên phân tích đề, giúp HS xác định đúng yêu cầu về: + Thể loại : Kể hay tả lại sự vật, sự việc. + Nội dung : Viết về ai, về con gì, cái gì. + Hình thức : Cách trình bày, số lượng câu - GV yêu HS trả lời các câu hỏi gợi ý trong SGK ( dưới hình thức nhóm hoặc cá nhân) rồi viết lại thành đoạn văn. - Tham khảo một số đoạn văn mẫu trên mạng internet hay trong sách tham khảo để học tập cách viết của họ. Các em học sinh vừa từ lớp một lên, bước đầu làm quen với hoạt động học tập mới. Do hạn chế về vốn sống, môi trường giao tiếp, một số em còn đọc viết chưa rõ ràng, còn nhút nhát, thiếu tự tin và thụ động trong học tập, khả năng chú ý chưa cao nên việc tổ chức hoạt động Luyện viết đoạn cho học sinh lớp hai theo các bước trên mới chỉ đáp ứng được phần nào mục tiêu cũng như yêu cầu của môn học. Cụ thể : Ưu điểm : + Bước đầu HS biết viết một đoạn văn theo đúng hình thức, nội dung đề bài yêu cầu. + Các em được rèn kĩ năng diễn đạt (nói và viết). + Phần lớn các em biết dùng từ để viết thành câu, nối các câu để thành một đoạn văn. + Nhiều em biết bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình trước một sự vật, hiện tượng Hạn chế: + Một số em viết chưa thành câu, dùng từ chưa hợp lý, diễn đạt còn lủng củng. + Nhiều em chưa biết dùng từ ngữ gợi tả, gợi cảm, câu văn chưa có hình ảnh sinh động. + Các câu văn còn rời rạc hay còn lặp ý. + Một số đoạn văn chưa có câu mở đầu hay câu kết đoạn. + Một số HS còn phụ thuộc nhiều vào các đoạn văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết học tập cách viết hay của các đoạn văn mẫu để hình thành cách viết văn riêng cho mình. Với mong muốn giúp HS lớp hai yêu thích và học tốt hoạt động luyện viết đoạn, từ đó phát triển tốt năng lực ngôn ngữ cho HS. Sau quá trình tìm hiểu và áp dụng vào thực tế tôi đã tổng hợp lại thành sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt tiết Luyện viết đoạn theo chương trình sách Kết nối tri thức với cuộc sống” . III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 1 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến *Giải pháp 1 : Nghiên cứu kỹ nội dung bài học, sáng tạo trong cách lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập của học sinh. Sách Tiếng Việt 2 theo chương trình 2018 thiết kế các nội dung dạy học theo định hướng mở, tạo cơ hội cho giáo viên vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa năng lực, phẩm chất của học sinh. Trước khi thiết kế bài dạy, người giáo viên phải nghiên cứu kĩ tài liệu để xác định đúng nội dung kiến thức, kĩ năng cơ bản cần cung cấp, trang bị cho HS. Trong chương trình Tiếng Việt 2 – bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, HS được luyện viết đoạn văn theo các nội dung sau: * Đoạn văn giới thiệu: + Giới thiệu bản thân + Giới thiệu một đồ vật + Giới thiệu về đồ chơi + Giới thiệu về con vật + Giới thiệu một đồ dùng học tập + Giới thiệu một đồ vật được là tre hoặc gỗ *Đoạn văn kể lại sự vật, sự việc + Kể về việc em thường làm ở nhà + Kể về một hoạt động thể thao hoặc trò chơi + Kể về người thân + Kể về một hoạt động em tham gia cùng bạn + Kể về việc đã làm cùng người thân + Kể về một giờ ra chơi + Kể về việc chăm sóc cây cối + Kể về việc làm bảo vệ môi trường + Kể về con vật + Kể về một buổi đi chơi + Kể lại một hoạt động ở trường hoặc lớp + Kể về công việc của một người + Kể lại sự việc đã được chứng kiến hoặc tham gia *Đoạn văn tả lại sự vật + Tả đồ dùng học tập + Tả đồ chơi + Tả một đồ vật + Tả một đồ dùng trong gia đinh *Đoạn văn bày tỏ tình cảm + Thể hiện tình cảm với người thân Cùng với việc xác định đúng nội dung kiến thức, người GV cần vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học như phương pháp quan sát, phương pháp vấn đáp, thảo luận nhóm.để lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú hơn. *Giải pháp 2: Phát triển kĩ năng quan sát cho học sinh Để có thể viết được đoạn văn hay thì việc đầu tiên là học sinh phải có khả năng quan sát tốt. HS lớp hai còn nhỏ, các em chủ yếu hình thành và phát triển tư duy dựa trên quan sát các sự vật, hiện tượng một cách cụ thể. Trước khi cho học sinh quan sát, GV cần đưa ra các gợi ý giúp cho học sinh biết được mục đích quan sát, đối tượng cần tập trung quan sát, cách quan sát ( từ gần đến xa, từ thấp lên cao..) . Ví dụ: Trong tiết Luyện viết đoạn tả đồ dùng học tập (Bài 16 – Tiếng Việt 2 tập 1). Trước khi cho HS quan sát một đồ dùng học tập của mình, GV đưa ra một số gợi ý như: + Đó là đồ dùng học tập gì? + Những đặc điểm nổi bật của đồ dùng học tập đó là gì? ( về hình dạng, kích thước, màu sắc, chất liệu...) + Cấu tạo của đồ dùng học tập đó: từ trên xuống dưới (hoặc từ ngoài vào trong ) có những bộ phận nào? + Nó giúp ích gì cho em trong học tập? + Em có nhận xét hay suy nghĩ gì về đồ dùng học tập đó? Để tạo hứng thú và sự sáng tạo cho HS khi quan sát, GV cần tổ chức cho HS quan sát dưới nhiều hình thức khác nhau: quan sát thực tế, quan sát qua tranh ảnh, clip hay thông qua các trò chơi học tập. *Giải pháp 3: Phát triển và mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh. Học sinh lớp hai còn nhỏ, vốn từ ngữ của các em còn rất hạn chế, nhiều khi các em hiểu ý, muốn viết ra nhưng chưa biết viết như thế nào, chưa biết dùng từ ngữ nào để kể hay tả lại. Vì vậy qua mỗi tiết học nói chung, qua các tiết Luyện từ và câu, Luyện viết đoạn nói riêng người giáo viên cần gợi mở, cung cấp thêm cho học sinh những từ ngữ theo từng chủ điểm, đặc biệt là những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, giàu hình ảnh để các em có thể vận dụng tốt vào viết đoạn văn. Đồng thời người giáo viên cần động viên, khích lệ và tạo một không khí thân thiện, bình đẳng để cho tất cả học sinh đều có thể mạnh dạn, tự tin nói ra những điều mình suy nghĩ hoặc diễn đạt theo cách riêng của mình. Tránh áp đặt cách suy nghĩ, miêu tả của mình cho học sinh. Có như vậy mới phát huy được khả năng sáng tạo, tư duy độc lập cho HS. Ngoài ra, người giáo viên cần khuyến khích học sinh có thói quen đọc sách, học tập cách dùng từ, diễn đạt hay từ các bạn, thầy cô sách vở để giúp cho vốn từ ngữ của mình ngày càng phong phú hơn. Ví dụ: Trong tiết Luyện viết đoạn văn tả hoạt động của con vật (Bài 12 –Tiếng Việt 2 tập 2). GV không cung cấp từ ngữ cho HS ngay từ đầu mà cho HS phát hiện và chỉ ra các từ ngữ miêu tả hoạt động cụ thể của một con vật thân thuộc (như con chó, con mèo) thông qua hoạt động học tập. Từ đó mở rộng vốn từ ngữ chỉ hoạt động đối với các con vật khác. Sau khi học sinh đã tìm và bổ sung được các từ ngữ phong phú, lúc đó GV mới hệ thống lại vốn từ ngữ chỉ hoạt động theo sơ đồ tư duy để HS ghi nhớ và vận dụng vào viết đoạn văn. *Giải pháp 4: Tổ chức tốt hoạt động nhóm trong tiết luyện viết đoạn. Thảo luận nhóm là một trong những biện pháp rất hay và hiệu quả trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Bởi qua thảo luận hay làm việc nhóm, học sinh có thể mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình. Học sinh lớp hai còn nhỏ, kĩ năng giao tiếp, diễn đạt còn hạn chế. Vì thế để tổ chức tốt hoạt động nhóm cho các em người giáo viên cần phải hướng dẫn rất tỉ mỉ và phải động viên, khích lệ, tạo điều kiện cho tất cả học sinh trong nhóm, đặc biệt là những em nhút nhát được bày tỏ ý kiến. Trong thực tế khi triển khai hoạt động này, tôi thường làm như sau: + Hướng dẫn các em cách chia nhóm (nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn...) phù hợp với nội dung, yêu cầu của mỗi bài + Cử nhóm trưởng của mỗi nhóm. Nhóm trưởng sẽ được hướng dẫn cách đặt câu hỏi, cách điều hành nhóm ngay từ đầu năm học. Nhóm trưởng sẽ được bầu lần lượt luân phiên theo tuần để tất cả mọi học sinh đều được rèn kĩ năng điều hành nhóm và phát triển khả năng ngôn ngữ của mình. + Với các thành viên trong nhóm ai cũng được mời trả lời ít nhất một lần về nội dung hay vấn đề mà nhóm cần thảo luận. + Giáo viên sẽ quan sát, động viên, giúp đỡ kịp thời những HS còn lúng túng và tuyên dương, ngợi khen những nhóm làm việc tích cực, hiệu quả. Trong thực tế với cách triển khai hoạt động nhóm như trên học sinh rất thích thú và làm việc rất tích cực, sôi nổi. * Giải pháp 5: Sử dụng sơ đồ tư duy, xây dựng dàn ý viết đoạn văn một cách ngắn gọn, dễ hiểu. HS lớp hai còn nhỏ, nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Các nhà khoa học từ lâu đã chỉ ra: “Bộ não của con người không tư duy và ghi nhớ theo hàng ngang như cách trình bày của sách vở mà tư duy, ghi nhớ theo hình cây”. Sơ đồ tư duy từ đó ra đời. Để giúp HS có thể viết đoạn văn đủ ý, sắp xếp các chi tiết phù hợp thì việc lập dàn ý theo sơ đồ tư duy dưới dạng ngắn gọn, dễ hiểu là một điều rất quan trọng. Ví dụ: Trong tiết Luyện viết đoạn Kể về con vật . Sau khi trả lời các câu hỏi, GV có thể cùng HS xây dựng dàn ý để viết đoạn văn ngắn dưới dạng sơ đồ tư duy như sau: *Giải pháp 6: Phát huy khả năng sáng tạo, tư duy độc lập của học sinh trong hoạt động luyện nói. Những học sinh có khả năng nói tốt sẽ rất thuận lợi khi thực hành viết đoạn văn. Trong thực tế nhiều học sinh rất ngại nói, ngại phát biểu ý kiến trước lớp vì sợ nói sai, diễn đạt không hay. Vì thế người giáo viên cần động viên, khích lệ và tạo một không khí thân thiện, bình đẳng để cho tất cả học sinh đều có thể mạnh dạn, tự tin nói ra những điều mình suy nghĩ hoặc diễn đạt theo cách riêng của mình. Tránh áp đặt cách suy nghĩ, miêu tả của mình cho học sinh. Có như vậy mới phát huy được khả năng sáng tạo, tư duy độc lập cho HS. Ví dụ: Trong tiết Luyện viết đoạn văn tả đồ dùng học tập Khi tả hình dáng của chiếc bút mực, GV khuyến khích học sinh mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Các em có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau như: + Chiếc bút có hình dáng thon dài. + Chiếc bút dài hơn ngón tay giữa của em. + Chiếc bút dài khoảng 13 xăng – ti – mét *Giải pháp 7: Kiên trì hướng dẫn, tư vấn cụ thể, chấm chữa tỉ mỉ cho học sinh về cách đặt câu, dùng từ , diễn đạt. Học sinh lớp hai còn nhỏ, một số em còn viết sai, đọc sai, chưa hiểu được nghĩa của từ. Nhiều em còn nhút nhát, nhanh quên, chưa tập trung. Vì thế trong quá trình hướng dẫn cho học sinh viết đoạn văn, người giáo viên phải kiên trì, thực sự cảm thông và yêu thương học sinh, không nóng vội. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức về từ và câu đã học trong tiết Luyện từ và câu để viết đoạn văn. Ví dụ: + Để viết câu mở đoạn các em có thể sử dụng kiểu câu giới thiệu. + Để miêu tả hình dáng, tính nết của người, con vật ta có thể dùng kiểu câu nêu đặc điểm. + Để kể, tả về công việc, hoạt động của người, con vật ta dùng kiểu câu nêu hoạt động. Khi chữa bài cho học sinh, giáo viên cần chỉ ra lỗi cụ thể về cách dùng từ, đặt câu, diễn đạtđể học sinh biết và tự sửa lại cho đúng. Trong trường hợp HS không tự sửa được, GV mới gợi ý, tư vấn cho HS. Với những đoạn văn học sinh viết đúng nhưng chưa hay, người GV có thể gợi mở một số từ ngữ gợi tả, gợi cảm, một số câu văn giàu hình ảnh, giàu cảm xúc để Hs có thể tham khảo, liên hệ vào bài viết của mình để đoạn văn được hay hơn. GV có thể cho HS chia sẻ những bài viết hay trước lớp để HS trong lớp có thể học tập lẫn nhau. 2. Tính mới, tính sáng tạo 2.1. Tính mới * Mới về ý tưởng : Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đề cao khả năng sáng tạo của người dạy và tự chủ của người học nhằm phát triển toàn diện các năng lực và phẩm chất của học sinh. Giáo dục không chỉ là nhiệm vụ của các nhà trường mà còn là nhiệm vụ chung của gia đình và toàn xã hội. Vì thế các giải pháp tôi đưa ra có tính toàn diện, phát huy được khả năng đổi mới về phương pháp, hình thứcgiảng dạy của giáo viên cũng như phát huy được khả năng chủ động, tự học, tự sáng tạo của học sinh. * Mới về giải pháp : Các giải pháp tôi đưa ra là giải pháp mang tính mới về mặt phương pháp tiếp cận. Sử dụng sơ đồ tư duy, xây dựng dàn ý viết đoạn văn một cách ngắn gọn, dễ hiểu cho học sinh lớp hai chưa có nhiều giáo viên làm được. Mà đây là một giải pháp rất hiệu quả bởi nó phù hợp với khả năng tư duy của con người. Tổ chức hoạt động nhóm trong các tiết học nói chung và tiết Luyện viết đoạn nói riêng đã được nhiều GV sử dụng nhưng Tổ chức tốt hoạt động nhóm trong tiết luyện viết đoạn thì rất ít GV làm được. Với cách tổ chức hoạt động nhóm thông thường, chủ yếu mới dừng lại ở việc phát huy tính tích cực của một vài HS nổi trội, có khả năng diễn đạt tốt. Nhưng ở giải pháp tôi đưa ra có tính toàn diện hơn, tạo cơ hội cho tất cả mọi học sinh trong lớp đều được phát huy tối đa năng lực của mình. Phát huy khả năng sáng tạo, tư duy độc lập của học sinh trong các hoạt động luyện nói là một giải pháp rất quan trọng. Nhiều giáo viên ngại sửa sai cho học sinh nên hay áp đặt cách suy nghĩ, diễn đạt của mình cho các em. Vì thế một số đoạn văn viết giống nhau, không có tính sáng tạo riêng của HS. Với giải pháp này HS không chỉ được rèn khả năng diễn đạt, phát triển năng lực đặc thù (sản sinh văn bản dưới dạng nói) mà còn phát huy được khả năng sáng tạo, cách nhìn mới mẻ của các em về thế giới xung quanh. 2.2 Tính sáng tạo Tính sáng tạo của sáng kiến này chính là việc tôi đã đưa ra cách làm khác với cách làm của nhiều giáo viên. Đó là: - Học sinh được chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức theo khả năng nhận thức của mình. Đoạn văn ngắn mà học sinh viết ra không chỉ là sản phẩm của một tiết học mà là sản phẩm của cả một quá trình quan sát, tích lũy kiến thức từ thực tế, bằng vốn sống và vốn từ ngữ của mình. - Học sinh nắm kiến thức chắc chắn, ghi nhớ tốt, mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp là tiền đề để các em viết tốt đoạn văn hoặc bài văn ở các lớp 3,4,5 cũng như học tốt các môn học khác. 3 Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến Sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp hai học tốt tiết Luyện viết đoạn theo chương trình sách Kết nối tri thức với cuộc sống” không chỉ áp dụng với học sinh lớp hai mà còn áp dụng hiệu quả khi dạy các tiết Luyện viết đoạn cho học sinh lớp 3;4;5 của trường. Đồng thời sáng kiến này còn có khả năng áp dụng với các trường Tiểu học khác trong thành phố. Năm học 2023 – 2024, tôi không chỉ áp dụng sáng kiến này cho đơn vị trường mình mà còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp 2B trường Tiểu học Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng và áp dụng sáng kiến này vào dạy Luyện viết đoạn cho 31 HS trong lớp. Sau khi thực hiện các giải pháp trên vào các tiết Luyện viết đoạn từ tuần 3 đến tuần 21, tôi thu được kết quả như sau: Lớp 2B ( 31 học sinh) Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Trước khi áp dụng sáng kiến 9 học sinh = 29 % 16 học sinh = 51,6 % 6 học sinh = 19,4% Sau khi áp dụng sáng kiến 18 học sinh = 58% 12 học sinh = 38,8% 1 học sinh 3,2% Qua bảng thống kê số liệu cho ta thấy việc áp dụng các giải pháp nêu trên tác động không nhỏ đến tinh thần, thái độ, chất lượng học tập của HS. Đa số HS nắm chắc kiến thức bài học, chủ động, tích cực học tập. Các em đã biết trình bày đúng hình thức của một đoạn văn, viết câu đủ ý, dùng từ phù hợp hơn. Số em hoàn thành tốt tăng cao (từ 9 đến 18 học sinh). Số em chưa hoàn thành giảm đáng kể (từ 6 xuống 1 học sinh). Như vậy sáng kiến này của tôi có thể áp dụng hiệu quả vào các trường Tiểu học của các quận, huyện trong toàn thành phố. 4 Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến a. Hiệu quả kinh tế: Xét về hiệu quả kinh tế đối với ngành giáo dục thì không thể tính bằng con số là bao nhiêu tiền. Nhưng nếu giáo dục đào tạo ra những công dân đầy đủ năng lực, biết sáng tạo, tự giải quyết vấn trong thực tiễn để trở thành con người lao động mới tự tin, năng động góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển thì rõ ràng giá trị kinh tế là vô cùng lớn bởi con người chính là nguồn gốc tạo ra mọi giá trị về kinh tế. b. Hiệu quả về mặt xã hội: * Với nhà trường Các giải pháp đưa ra rất phù hợp với đối tượng học học sinh lớp 2 và có tính khả thi cao. Tiết học Luyện viết đoạn trở nên nhẹ nhàng hơn, không còn là những tiết học khó với nhiều giáo viên và học học sinh. Học sinh được chủ động, sáng tạo, hứng thú trong giờ học, kĩ năng nói, viết được rèn luyện và phát triển. HS được bày tỏ cảm xúc chân thành. Các năng lực và phẩm chất của HS được hình thành, phát triển một cách tự nhiên đáp ứng được mục tiêu mà chương trình giáo dục 2018 đặt ra. *Với xã hội: Các giải pháp trên đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển và hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lao động tương lai của đất nước . Những kết quả thu được sẽ tạo được niềm tin trong phụ huynh và các lực lượng xã hội, nhà trường sẽ nhận được sự quan tâm đầu tư hơn nữa để phát triển sự nghiệp giáo dục cao quý. Việc áp dụng các giải pháp trên giúp mỗi chúng ta phải luôn tự trau dồi, tự học tập để nâng cao trình độ, đặc biệt là áp dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học nhưng quan trọng hơn cả là sự không ngừng hoàn thiện bản thân về nhân cách, phẩm chất đạo đức của người thầy, là tấm gương cho học sinh noi theo, dùng nhân cách của mình để giáo dục nhân cách học sinh. Đây cũng là giải pháp để góp phần phát triển năng lực học sinh. Các em không chỉ được trang bị kiến thức mà còn biết tự mình trang bị kiến thức, các em không chỉ hiểu mà còn biết làm, biết vận dụng vào cuộc sống. Phát triển năng lực sáng tạo, tự học và giải quyết vấn đề cho học sinh là góp phần hình thành những con người đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống hiện nay. CƠ QUAN ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN .. ... ... Vũ Thị Yến
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_hai_hoc_tot_tiet_luy.doc