SKKN Một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng bài tập làm văn miêu tả con vật Lớp 4
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng bài tập làm văn miêu tả con vật Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng bài tập làm văn miêu tả con vật Lớp 4
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH PHONG- TIỀN PHONG BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN “Một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng bài tập làm văn miêu tả con vật lớp 4” Tác giả: Nguyễn Thị Thoa Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Phong- Tiền Phong Tháng 12 năm 2022 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng bài tập làm văn miêu tả con vật” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: : Môn Tập làm văn lớp 4 3.Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Thoa Ngày, tháng, năm sinh: 20/ 08/ 1979. Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Vĩnh Phong- Tiền Phong Điện thoại DĐ: 0912 301 103 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Tiểu học Vĩnh Phong- Tiền Phong Địa chỉ: Vĩnh Phong - Vĩnh Bảo - Hải Phòng Điện thoại: 5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học 2021-2022 6. Những thông tin cần được bảo mật: Không I. Mô tả giải pháp đã biết 1. Tình trạng giải pháp đã biết: Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn (Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu, Kể chuyện), mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt Tiếng Việt. Trong đó Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Ở chương trình Tập làm văn lớp 4, văn miêu tả chiếm thời lượng lớn nhất so với các loại văn khác. Trong dạy học văn miêu tả, kĩ năng viết văn có vị trí gần như quyết định đến sự thành công của bài làm văn miêu tả. Học sinh không thể tạo nên một bài văn miêu tả khi chưa biết kĩ năng viết văn là gì. Chính kĩ năng này sẽ giúp các em sử dụng tốt ngôn ngữ Tiếng Việt của mình để lột tả hết ý tưởng cá nhân và rèn tư duy logic. Đây sẽ là cơ sở để phác họa một cách chân thực và sinh động nhất về đối tượng miêu tả bằng lời văn của mình. 1.1. Ưu điểm: - Văn miêu tả con vật lớp 4 có vai trò rất quan trọng, là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. - Miêu tả con vật là một thể loại văn giúp học sinh dùng ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại hình ảnh con vật với những đặc điểm nổi bật cả về hình dáng bên ngoài lẫn những hoạt động và thói quen sinh hoạt nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung, tưởng tượng ra con vật ấy thông qua các giác quan của mình. - Văn miêu tả con vật giúp các em có lòng say mê văn học, hứng thú với việc dùng câu văn của mình để bộc lộ một sự vật, một hiện tượng nào đó, có tình cảm và sự gắn bó với những đồ vật, những loài vật xung quanh. Từ đó các em có nhu cầu bộc lộ cảm xúc của mình trước những sự vật, sự việc mà bản thân mình tiếp xúc hàng ngày. Hoạt động sáng tạo yêu thích của các em được thể hiện rõ trong làm văn. Nếu được học theo một chương trình đúng, một phương pháp phù hợp thì các em tuổi này rất thích học văn. 1.2. Hạn chế: - Khi làm văn miêu tả nói chung và miêu tả con vật nói riêng đa số các em đã biến bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà, tối nghĩa, câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. - Vốn từ miêu tả của học sinh còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích luỹ các từ ngữ gợi tả nên chất lượng bài viết chưa cao, nội dung sơ sài, diễn đạt lủng củng, khô khan, thiếu tính sáng tạo, thiếu sự hồn nhiên ngây thơ hoặc máy móc, dập khuôn các bài văn mẫu, không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của bản thân vào bài viết. - Không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi viết văn. Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự nhiên, có sự gượng ép. - Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình. Các em chưa thực sự cảm thấy yêu môn học. - Một số học sinh chưa xác định được trọng tâm của đề bài văn miêu tả con vật nên bài viết của các em không biết viết bắt đầu từ đâu, phải viết những gì, viết như thế nào, thậm chí viết còn sai đề, xa đề. Các em còn rất lúng túng khi làm một bài văn miêu tả con vật vì thế dẫn đến kết quả đạt được chưa cao. - Các tiết Tập làm văn chính khoá giáo viên đã dạy các em viết từng phần, miêu tả từng bộ phận nhưng nhiều em chưa biết tổng hợp để viết thành bài văn hoàn chỉnh dẫn đến bài viết chưa đạt yêu cầu. 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến: 2.1. Tính cấp thiết: - Từ những phân tích trên tôi hiểu được vai trò của quan sát trong việc miêu tả chi tiết của các bài văn miêu tả nói chung, miêu tả con vật nói riêng cho học sinh lớp 4 là vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Học sinh phải quan sát và chọn lọc các chi tiết để miêu tả, nói và viết được bài văn miêu tả hoàn chỉnh. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn nhất là văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4? Tôi nhận thấy mình cần phải giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, các biện pháp so sánh, nhân hóa... khi miêu tả. Vì thế nên trong quá trình giảng dạy, chúng tôi thấy rằng việc nâng cao hiệu quả dạy bài tập làm văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4 là rất cần thiết và quan trọng. 2.2. Tính mới: - Đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng quan sát, tìm ý qua trực quan; Rèn kĩ năng tích lũy vốn từ, làm giàu tưởng tượng trong làm văn miêu tả con vật; Thông qua việc đánh giá, nhận xét bài làm của học sinh để khích lệ, động viên các em. - Giúp giờ học nhẹ nhàng hơn, học sinh yêu thích môn học và vận dụng trong giao tiếp hàng ngày. Sáng kiến này được tôi áp dụng tại Trường Tiểu học Vĩnh Phong trong năm học 2020 - 2021 vừa qua và đạt hiệu quả cao. Để nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn miêu tả con vật cho học sinh lớp 4 tôi đã thực hiện các biện pháp cụ thể như sau: Biện pháp 1: Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý qua trực quan Đối với kiểu bài văn miêu tả, việc quan sát là cơ sở của tìm ý. Quan sát là sử dụng các giác quan để xem xét, nhận biết sự vật, hiện tượng. Có quan sát tốt, quan sát theo trình tự hợp lý học sinh mới viết được bài văn hay. Một số học sinh do chưa nắm được phương pháp quan sát nên dẫn đến bài văn miêu tả có nội dung sơ sài, mang tính liệt kê, chưa làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Thực trạng cho thấy ở các tiết luyện tập quan sát con vật giáo viên chưa cho học sinh quan sát trực tiếp con vật được miêu tả mà đa phần học sinh chỉ quan sát qua hình ảnh hoặc video. Từ đó suy nghĩ và nhớ lại những gì mình đã nhìn thấy từ con vật đó rồi ghi lại. Vì vậy nội dung quan sát được học sinh ghi lại theo trí nhớ nên đôi khi có những chi tiết chưa thật chính xác. Khi dạy tiết quan sát, tôi thường tổ chức cho học sinh quan sát trực tiếp con vật ở nhà rồi ghi lại kết quả quan sát vào giấy. Trước ngày học tiết quan sát tôi giao nhiệm vụ cho học sinh: “Em hãy quan sát một con vật mà em thích”. Với yêu cầu này học sinh sẽ có thời gian chuẩn bị và quan sát được con vật mà em thích (Có thể các em quan sát con vật của nhà hoặc ở gần nhà) và lưu ý học sinh ghi lại những điều quan sát được theo hướng dẫn của cô. Tôi đã hướng dẫn các em quan sát theo trình tự nhất định (không gian, thời gian, tâm lí) và quan sát bằng nhiều cách khác nhau (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ,...). Trước hết học sinh phải: - Xác định đối tượng quan sát. - Chọn cho mình trình tự quan sát hợp lý, gợi ý cho học sinh lựa chọn các trình tự quan sát như: + Quan sát từ bao quát đến từng bộ phận, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ phận thứ yếu,. + Quan sát trình tự tâm lý: Thấy nét nào nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh thì quan sát trước, các bộ phận khác quan sát sau. + Cần quan sát đầy đủ những đặc điểm về hình dáng, hoạt động và cả mối quan hệ của con vật đối với người. Điều quan trọng là phải rèn cho học sinh của mình nhìn sự vật miêu tả bằng tâm trạng của mình, cảm xúc của mình để thấy được những điểm nổi bật, riêng biệt của con vật mình tả. Biết dừng lại ở những bộ phận chủ yếu, trọng tâm để quan sát nhằm phân biệt được con vật mình tả với con vật khác cùng loại. Sau khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần hướng dẫn học sinh ghi lại những điều mình quan sát được theo một trình tự hợp lý. Tôi thường hướng dẫn học sinh ghi lại những điều các em quan sát được theo dàn bài chung của bài văn miêu tả con vật . Mỗi một người giáo viên cần phải hiểu rằng: Hướng dẫn học sinh quan sát là một bước làm rất quan trọng trong tiết Tập làm văn miêu tả nói chung và miêu tả con vật nói riêng. Nhờ vậy mà học sinh lớp tôi em nào cũng biết quan sát quan sát con vật của mình theo đúng trình tự, quan sát được những đặc điểm nổi bật về hình dáng và hoạt động của con vật đó. Biện pháp 2: Xây dựng dàn bài chung, chi tiết cho bài văn miêu tả con vật Từ việc quan sát vật thật để giúp học sinh làm tốt, viết văn trôi chảy mạch lạc thì các em cần nắm vững cấu tạo của bài văn miêu tả con vật, vì vậy ở các tiết luyện Tiếng Việt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng được dàn bài của bài văn miêu tả con vật. Khi nắm được dàn bài của bài văn miêu tả con vật học sinh sẽ có điểm tựa để quan sát theo trình tự hợp lý, viết được bài văn mà không lúng túng, nhất là đối với học sinh không có năng khiếu viết văn. Vì vậy tôi đã hướng dẫn học sinh lập được một dàn bài chung có bố cục như sau: Mở bài: Giới thiệu con vật định tả là con gì? Con vật này của nhà ai? Nó được nuôi từ bao giờ? Thân bài: +Tả đặc điểm hình dáng bên ngoài : Vóc dáng, màu sắc, đường nét cùng các bộ phận đầu, tai, mũi, miệng, chân, đuôi,... +Tả tính nết và hoạt động: Tính nết và hoạt động nổi bật của con vật là gì? (Ví dụ: Khi ăn, ngủ; lúc đứng, nằm; khi trong chuồng, lúc ngoài sân; khi bình thường, lúc có chuyện đột xuất xảy ra...) +Tác dụng của con vật đối với đời sống con người Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về con vật định tả, lợi ích của nó, ý thức chăm sóc con vật... Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy trong việc dạy học sinh lập dàn ý chung để mang lại hiệu quả cao, phát triển tư duy logic, kĩ năng phân tích tổng hợp, giúp học sinh dễ hiểu bài, nhớ lâu. Mặt khác, trong dạy học phân môn tập làm văn phương pháp sơ đồ tư duy còn có ưu thế trong việc tập hợp, tổ chức triển khai ý tưởng của học sinh nên chúng tô nhận thấy rằng đây chính là một phương tiện để hướng dẫn học sinh nắm rõ bố cục của bài văn. Khi miêu tả học sinh nên dùng từ tượng thanh để mô tả lại âm thanh nhằm mục đích khắc họa lại âm thanh đặc trưng của con vật được miêu tả. Nên dùng biện pháp so sánh, nhân hóa, các từ ngữ chỉ màu sắc, phẩm chất, các động từ chỉ hoạt động mang đặc trưng giống loài để miêu tả con vật cho cụ thể và sinh động. Dựa vào bố cục này học sinh sẽ lập được dàn ý chi tiết cho bài văn tả con vật cụ thể của mình theo trình tự hợp lý. Ví dụ một em đã lập dàn ý chi tiết cho bài văn tả con chó như sau: Mở bài: Nhà em từ trước tới nay rất ít khi nuôi con vật nào trong nhà nhưng hôm nay lại có sự xuất hiện của chú chó lai này..Đó là món quà bà ngoại đã tặng cho em nhân lúc em về quê ăn giỗ. Thân bài: a) Tả khái quát rồi đến tả chi tiết từng bộ phận của con chó. - Con Milu nhập khẩu vào nhà em khi nó còn là một cậu bé nhỏ xíu, vậy mà giờ nó đã cao lớn rồi. - Toàn thân nó được bao bọc bởi lớp áo màu đen hung. - Nó nặng khoảng mười lăm ki – lô - gam. - Cái đầu nó to như trái bưởi với hai cái tai lúc nào cũng cúp xuống, hai cái tai chỉ dựng đứng lên khi nó đang hóng nghe ai nói chuyện mà thôi. - Đôi mắt to màu nâu sẫm. - Chiếc mũi lúc nào cũng ươn ướt, hít hít như muốn tìm kiếm vật gì vậy. - Mõm chú to và dài, mỗi khi chú ngáp lộ rõ mấy cái răng nhọn hoắt, cái lưỡi màu hồng hay lè ra ngoài. b) Tả hoạt động của con chó. - Milu rất khôn ngoan, mỗi khi em bảo nó nằm xuống, hay bắt tay là nó làm liền. - Chú là loài vật rất thính, khách lạ hay quen vào nhà chú đều phân biệt được hết. Khách lạ thì chú sủa những tràng dài như báo hiệu cho chủ biết, còn khách quen thì chú ngó ngoáy đuôi vui mừng như là hiếu khách lắm vậy. - Mực thường ngủ ngoài hiên nhà để trông coi nhà và đàn gà của mẹ. Không một tiếng động nhở nào mà chú không phát hiện được cả. Dù ai trong gia đình em đi đâu thật xa, thật lâu không về nhưng khi về đến cổng là con Mực đã nhảy ào ra mừng rỡ. Kết bài: Người ta nói “Chó là loài vật trung thành với chủ nhất” quả không sai chút nào. Em yêu Milu như một người bạn thân của mình, nhất là những lúc ở nhà một mình. Milu đúng là niềm vui của em. Từ dàn bài chi tiết này các em sẽ làm tốt được bài văn với đầy đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) và sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lý. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng tích luỹ vốn từ và làm giàu tưởng tượng trong làm văn miêu tả con vật. Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả: * Tích luỹ vốn từ: Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; đặc biệt học sinh tích lũy ngay khi học các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình khi làm văn. Ví dụ: Trong phân môn Tập đọc lớp 4, những bài tập đọc mang phong cách nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao khi miêu tả con vật như: Con Sẻ, Con chuồn chuồn nước, Con chim chiền chiện. Thông qua bài Tập đọc, tôi cho các em nêu và giải nghĩa một số từ ngữ có tính chất liên quan đến kiểu bài văn trong tuần và yêu cầu các em đặt câu. Từ đó giúp các em hiểu được cách quan sát các sự vật, cách dùng từ, đặt câu, diễn đạt ý và cách sử dụng nghệ thuật trong khi làm bài văn miêu tả con vật. Cụ thể trong bài Con chuồn chuồn nước (Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127). Khi dạy bài này tôi giúp cho học sinh nhận thấy: Qua các chi tiết (Màu vàng trên lưng chú lấp lánh. Bốn cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu), cách sử dụng từ láy, từ ngữ giàu hình ảnh đã nói lên vẻ đẹp sinh động của chú chuồn chuồn nước, cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời theo cánh bay của chú chuồn chuồn. Sau đó tôi yêu cầu học sinh nói câu về miêu tả con vật khác qua các từ ngữ: long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, ... bên cạnh đó bộc lộ cảm xúc của mình đối với con vật mà mình tả. Mỗi bài Tập đọc đều có tác dụng giáo dục học sinh về cách sống, cách nhìn nhận thế giới quan một cách chân thực, để từ đó các em có cảm xúc thực sự. Do đó khi dạy các bài tập đọc, tôi luôn giúp các em cảm nhận và vận dụng kiến thức đó vào thực tế để các em khi viết văn được sinh động hơn. Với phân môn chính tả sẽ rèn cho học sinh cách nghe và viết đúng chính tả bởi Tiếng Việt nếu viết sai chính tả sẽ dẫn đến sai nghĩa của từ, của câu. Qua việc viết chính tả tôi giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ, cách sử dụng các dấu câu và cách trình bày bài văn một cách khoa học. Nhiệm vụ chủ yếu của phân môn Luyện từ và câu là cung cấp vốn từ, cách sử dụng từ và câu trong Tiếng Việt. Bởi vậy, phân môn Luyện từ và câu có tác dụng hỗ trợ rất đắc lực cho phân môn Tập làm văn. Vì thế, trong khi dạy Luyện từ và câu, tôi đã thay đổi các hình thức tổ chức dạy học để học sinh tích cực tham gia vào việc tự tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm, nhóm miêu tả hoạt động,... Trong các tiết mở rộng vốn từ, cách xác định các từ loại danh từ, động từ, tính từ,... và thực hành đặt câu, sử dụng dấu câu. Ví dụ trong tiết Luyện từ và câu “Tính từ”: Từ việc nhận xét mức độ trắng khác nhau của: tờ giấy này trắng; tờ giấy này trăng trắng; tờ giấy này trắng tinh. Tôi đã hướng dẫn để các em tìm thêm các từ ghép từ tính từ trắng như: trắng xóa, trắng nõn, trắng như phấn, trắng như cước,... và cho các em đặt câu để cung cấp thêm vốn từ cho học sinh. Hay từ láy gợi tả âm thanh: ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập bì bọp, ì ọp, ì ầm, xôn xao, ào ào... cho học sinh đặt câu dưới dạng miêu tả có sử dụng từ để trau dồi vốn từ cho văn miêu tả nói chung và miêu tả con vật nói riêng. Ngoài ra, tôi còn khích lệ các em tích cực đọc sách, truyện tại thư viện trường, thư viện lớp. Tại lớp mình tôi thường xuyên thay đổi các đầu sách, nhắc nhở các em nên tham khảo các cuốn Tập làm văn hay để trau dồi vốn từ. Khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả con vật các em sẽ chọn lọc các từ thường dùng trong miêu tả con vật và ghi chép lại. Ví dụ: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,... Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,... để miêu tả cho sinh động. * Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: Tưởng tượng trong miêu tả nói chung và miêu tả con vật nói riêng rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Từ việc thường xuyên nhắc nhở các em tích luỹ những từ ngữ như vây, vốn từ của các em sẽ phong phú hơn. Các em sẽ linh hoạt khi viết bài văn miêu tả và tả một cách sinh động, hấp dẫn người đọc, người nghe. Biện pháp 4: Nâng cao chất lượng làm văn miêu tả thông qua việc nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp. Đồng thời nếu không nắm vững được quy tắc đặt câu thì vốn từ có phong phú cũng không trình bày được ý kiến của mình một cách đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng. Vì vậy, khi dạy Tập làm văn cho học sinh tôi thường gắn liền việc dạy từ, dạy câu với việc nhận xét, đánh giá. Đó là hai quá trình không thể tách rời. Muốn có được tiết trả bài có hiệu quả cao thì việc đánh giá, nhận xét là rất quan trọng. Tôi đánh giá thật kỹ càng, chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho học sinh. Khi đánh giá bài phát hiện ra lỗi của học sinh tôi ghi lại cẩn thận các lỗi của học sinh theo từng loại: lỗi về cách dùng từ, lỗi về câu, lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, và cũng cần ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay. Sau khi đánh giá bài tôi thống kê các loại bài đạt, chưa đạt, đưa ra nhận xét chung nhất về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh, thống kê được các lỗi mà học sinh thường mắc và những câu văn, đoạn văn hay. Trong tiết trả bài ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách giáo viên đã hướng dẫn, tôi đã thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán. Sau khi nhận xét chung, tôi chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi đã thống kê khi đánh giá bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước. Sau đó, tôi trả bài và có thể tổ chức cho học sinh tạo thành nhóm đôi theo năng lực (giỏi, khá, trung bình) hoặc đ
File đính kèm:
skkn_mot_so_giai_phap_giup_nang_cao_chat_luong_bai_tap_lam_v.docx

