SKKN Một số giải pháp sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 4

doc 33 trang Mịch Hương 30/10/2025 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 4

SKKN Một số giải pháp sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 4
PHÒNG GD&ĐT NINH PHƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG TIỂU HỌC TỪ TÂM 1 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 Đề tài : 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
SỬ DỤNG KĨ THUẬT, PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 4
****** @ï&ð? *****
 Họ và tên người viết : Đỗ Thị Tuyết Mai
Chức vụ	 : Giáo viên
	Đơn vị công tác	 : Trường Tiểu học Từ Tâm 1
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Toán học có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Nó giúp con người trong tính toán, đo đạc, buôn bán, xây dựng, ... đó là chìa khóa vạn năng giúp học sinh mở ra các môn học khác và nhận thức thế giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Từ đó góp phần giáo dục tính kiên trì, nhẫn nại, ý chí vượt khó. Đối với học sinh tiểu học, việc học môn Toán chính là đặt những viên gạch đầu tiên tạo tiền đề để khi lớn lên sẽ xây những tòa lâu đài kiến thức. Các em sẽ trở thành những nhà khoa học, nhà Toán học, nhà giáo... tất cả đều nhờ nền móng Toán học chúng ta tạo dựng cho các em ngày hôm nay. Vì thế, trong quá trình giảng dạy môn Toán người giáo viên phải biết vận dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực. Việc vận dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học như thế nào? và vận dụng sao cho hợp lí trong các giờ học Toán đó là điều mà tất cả giáo viên đều quan tâm; nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức Toán học một cách chủ động, linh hoạt nhất. 
1. Cơ sở lí luận:
Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, kiến thức không còn là tài sản riêng của trường học. Học sinh có thể tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh, nguồn khác nhau. Các nguồn thông tin phong phú đa chiều mà người học có thể tiếp nhận đã đặt giáo dục trước yêu cầu cấp bách là cần phải đổi mới cách dạy và cách học. Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Vấn đề đặt ra với nhà trường là làm thế nào để học sinh có thể làm chủ, tự lực chiếm lĩnh kiến thức, tích cực, chủ động, sáng tạo, có kĩ năng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Đó thực sự là những thách thức lớn đối với ngành giáo dục nói chung, nhà trường, giáo viên nói riêng. Giáo viên không chỉ là người mang kiến thức đến cho học sinh mà cần dạy cho học sinh cách tìm kiếm, chiếm lĩnh kiến thức để đảm bảo cho việc tự học suốt đời.
 2. Cơ sở khoa học: 
 Quá trình dạy học toán trong chương trình tiểu học được chia thành hai giai đoạn:
 Giai đoạn ở các lớp 1, 2, 3 có thể coi là giai đoạn học tập cơ bản và ở giai đoạn này học sinh được chuẩn bị những kiến thức, những kĩ năng cơ bản nhất về đếm, đọc, viết, so sánh, sắp xếp thứ tự các số tự nhiên và bốn phép tính về số tự nhiên (trong phạm vi các số đến 100 000); về đo lường; về nhận biết, vẽ các hình học dạng đơn giản
 Giai đoạn các lớp 4, 5 có thể coi là giai đoạn học tập sâu (so với giai đoạn trước). Ở các lớp 1, 2, 3 học sinh chủ yếu chỉ nhận biết các kĩ năng ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thật hoặc mô hình, tranh ảnh... Giai đoạn lớp 4,5 học sinh vẫn học tập các kiến thức và kĩ năng cơ bản của môn Toán nhưng ở mức độ sâu, khái quát hơn, tường minh hơn. Một trong những đổi mới trong dạy học Toán ở giai đoạn lớp 4,5 là không quá nhấn mạnh lý thuyết mà phải cố gắng tạo điều kiện để tinh giản nội dung, tăng hoạt động thực hành – vận dụng, tăng chất liệu thực tế trong nội dung, đặc biệt tiếp tục phát huy dạy học dựa vào hoạt động của học sinh để phát triển năng lực làm việc bằng trí tuệ cá nhân và hợp tác trong nhóm với sự hỗ trợ có mức độ của thiết bị học tập.
Để tổ chức dạy học có hiệu quả, giáo viên cần phải biết cách lựa chọn, sử dụng những ưu thế của từng phương pháp dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung từng loại bài học, từng lớp học, từng giai đoạn dạy học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì thế, trong việc dạy và học giáo viên phải biết kết hợp nhiều kĩ thuật, phương pháp dạy học vì nó có những mặt tích cực và hạn chế riêng, không nên tuyệt đối hoá một kĩ thuật, phương pháp nào cả... Trong một lớp học, trình độ kiến thức tư duy của học sinh không thể đồng đều thì khi áp dụng kĩ thuật, phương pháp dạy và học tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về cường độ, tiến độ học tập. Chương trình Toán theo mô hình trường học mới VNEN đã có những biến đổi để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức nhằm giúp học sinh học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của bản thân. Để đạt được mục đích đề ra, người giáo viên cần nắm vững mục tiêu, nội dung, khả năng có thể khai thác trong từng bài. Điều quan trọng là giáo viên phải biết xác định từng kĩ thuật, phương pháp dạy học phù hợp và vận dụng thành thạo vào tiết học Toán.
3. Cơ sở thực tiễn: 
	Từ khi được chuyển về trường Tiểu học Từ Tâm 1 công tác đến nay, tôi luôn được phân công phụ trách lớp 4. Qua theo dõi kết quả học tập trong các năm cho thấy tỉ lệ học sinh học chậm môn Toán còn nhiều với các nguyên nhân sau:
 w Phần đông các bậc phụ huynh vì điều kiện kinh tế và hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ít quan tâm đến việc học tập của con cái, thường khoán trắng cho giáo viên, nhà trường. 
 w Kiến thức hiểu biết của cha mẹ lại có hạn nên không thể giúp các em trong việc học tập (do trình độ dân trí của địa phương).
	w Các em chưa chủ động hay tích cực trải nghiệm, khám phá lĩnh hội kiến thức mới của tiết học.
	w Một số ít học sinh ngại học, vì hỏng một số kiến thức căn bản nào đó từ những lớp dưới. 
	w Việc chuẩn bị bài học ở nhà của các em chưa thấu đáo và sắp xếp hợp lí. 
 w Giáo viên còn ngại đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học và tổ chức các hoạt động vui chơi học tập gây hứng thú cho học sinh.
Chính điều đó đã làm cho tôi phải trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để thế hệ trẻ, mầm non tương lai của đất nước có trình độ, vốn kiến thức Toán học cơ bản, đáp ứng được yêu cầu xã hội hiện nay. Từ đó tôi tìm tòi, tham khảo sách báo, tài liệu và đã vận dụng: “Một số giải pháp sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 4” vào việc giảng dạy nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức một cách tự giác và giúp các em học tốt hơn trong giờ học toán theo mô hình VNEN.
II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
 Nhằm phát huy tính tích cực của mỗi học sinh trong giờ học toán và để nội dung các hoạt động học tập không nghèo nàn, đơn điệu. Tôi đã mạnh dạn sử dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học tích cực vào quá trình giảng dạy của mình nhất là việc dạy và học theo chương trình VNEN hiện nay. Các giải pháp được thực hiện như sau:
1. Giải pháp thứ nhất: Sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi 
 Trong dạy học, hệ thống đặt câu hỏi của giáo viên rất quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng lĩnh hội tri thức của học sinh. Thay cho việc thuyết trình, đọc chép, nhồi nhét kiến thức, tôi chuẩn bị hệ thống câu hỏi để học sinh suy nghĩ phát hiện kiến thức, phát triển nội dung bài học. Đồng thời khuyến khích học sinh động não tham gia thảo luận xoay quanh những ý tưởng, nội dung trọng tâm của bài học theo trật tự lôgíc. Hệ thống câu hỏi của giáo viên còn kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết của học sinh. Giáo viên chỉ là người tổ chức cho học sinh chủ động tìm tòi, sáng tạo, phát hiện kiến thức mới. Qua đó, học sinh có được niềm vui, hứng thú của người khám phá và tự tin khi thấy trong kết luận của thầy cô có phần đóng góp ý kiến của mình. Kết quả là học sinh vừa lĩnh hội được kiến thức mới đồng thời biết được cách thức đi đến kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Giáo viên tổ chức các kĩ thuật, phương pháp nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ của trò, điều đó thể hiện rất rõ trong mỗi tiết dạy mà tôi đã áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi, cụ thể như sau: 
a. Kĩ thuật đặt câu hỏi trong việc hình thành kiến thức mới.
@ Ví dụ: Khi dạy bài “Biểu thức có chứa ba chữ, tính chất kết hợp của phép cộng.”(Hoạt động 4 của hoạt động cơ bản/trang 76, sách hướng dẫn học Toán 4 tập 1A)
 So sánh giá trị của 2 biểu thức.
 (a + b) + c và a + (b + c) 
Về kĩ thuật: 
● Trường hợp 1: khi a = 5; b = 4; c = 6 
- Nếu a = 5; b = 4; c = 6 thì giá trị của biểu thức (a + b) + c =? và a +(b + c)= ?
 Thay số vào chữ ta có:
(a + b) + c = (5 + 4) + 6 = 9 + 6 = 15 
a + (b + c) = 5 + (4 +6) = 5 + 10 = 15
 Nhận xét giá trị của 2 biểu thức này thế nào? ( bằng nhau)
 Cách tính của biểu thức nào thuận tiện nhất? ( a + (b + c) )
● Trường hợp 2: khi a = 25; b = 15; c = 10
- Nếu a = 25; b = 15; c = 10 thì: (a + b) + c = (25 +15) + 10 = 40 + 10 = 50
 a + (b + c) = 25 + (15 + 10) = 25 + 25 = 50
- Giá trị của 2 biểu thức này thế nào? ( bằng nhau)
- Em rút ra kết luận gì? (Vậy (a + b) + c = a + (b + c), học sinh trình bày). 
- Muốn tính tổng của hai số với số thứ ba ta làm như thế nào? (Muốn tính tổng của hai số với số thứ ba, ta có thể cộng số thứ nhất với tổng của số thứ hai và số thứ ba).
- Để có cách tính thuận tiện, ta có thể tính giá trị biểu thức dạng a + b + c như thế nào? (học sinh trình bày: a + b + c = (a + b) + c = a + (b + c) = (a + c) + b, giáo viên ghi bảng). Từ công thức này, học sinh có thể làm nhanh các bài tính giá trị biểu thức bằng cách tính thuận tiện.
b. Kĩ thuật đặt câu hỏi kết hợp với minh họa.
 @ Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số” ( Hoạt động 2 của hoạt động cơ bản/trang 57 sách hướng dẫn học toán 4 tập 2A)
Về kĩ thuật ta làm như sau: Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy.
- Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang. 
+ Tô màu vào băng giấy, tiếp tục tô màu vào băng giấy (như hình vẽ)
Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy.
- Học sinh nêu: + = = 
- Hai phân số + có mẫu số như thế nào? (Có mẫu số giống nhau)
- Muốn cộng hai phân số cùng mẫu số ta làm như thế nào? (Lúc này học sinh sẽ nêu được muốn cộng hai phân số cùng mẫu số ta cộng hai tử số với nhau và giữ nguyên mẫu số).
c. Kĩ thuật đặt câu hỏi nhằm phát huy khả năng suy luận của học sinh.
 @ Ví dụ 1: Khi dạy bài “Dấu hiệu chia hết cho 5” (sách hướng dẫn học Toán 4 tập 1B /trang 78) 
Sau khi đã kết luận được “Các số có chữ số tận cùng là 0 hoặc 5 thì chia hết cho 5”.
Về kĩ thuật, giáo viên đặt câu hỏi phát huy khả năng suy luận của học sinh như sau: 
- Vậy số như thế nào thì không chia hết cho 5? 
- Mọi số chia hết cho 5 đều có chữ số tận cùng là 0 có đúng không? Vì sao?
 @ Ví dụ 2: 
Bài “So sánh hai phân số khác mẫu số” (sách hướng dẫn học Toán 4 tập 2A/ trang 50).
Về kĩ thuật đặt câu hỏi (giáo viên hướng dẫn để phát huy tính tích cực, khả năng suy luận của học sinh): 
- Trong hai phân số và phân số nào lớn hơn ? (học sinh trả lời theo suy nghĩ)
- Nhận xét đặc điểm của hai phân số và ? (là hai phân số khác mẫu số). 
- Muốn biết hai phân số đó, phân số nào lớn hơn hay bé hơn ta phải làm như thế nào? (Ta làm cho hai phân số cùng mẫu số hoặc cùng tử số) 
- Vậy muốn so sánh hai phân số đó ta phải thực hiện như thế nào? (quy đồng phân số về cùng mẫu số thì mới so sánh được).
@ Ví dụ 3: Trong bài: “ Phép cộng phân số ( tiếp theo )”( Hoạt động 2 của phần hoạt động cơ bản / trang 60 sách hướng dẫn học Toán 4 tập 2A) 
Bài toán: “ Có một băng giấy màu, bạn Linh lấy băng giấy, Bạn Bình lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn đã lấy bao nhiêu phần băng giấy màu ? ”.
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau: 
Về kĩ thuật: Đưa về cộng hai phân số có cùng mẫu số bằng cách quy đồng mẫu số hai phân số. 
- Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Linh và Bình đã lấy, cần thực hiện phép tính gì ? (phép cộng: + ).
 Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề để học sinh suy luận tìm ra cách cộng hai phân số khác mẫu số, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
 Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với phương pháp dạy học vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.
Qua các ví dụ minh họa trên, ta thấy kĩ thuật đặt câu hỏi là một kĩ năng quan trọng đối với giáo viên với tác dụng khuyến khích, kích thích tư duy, hướng học sinh tập trung vào nội dung bài học, đồng thời giúp học sinh ghi nhớ kiến thức và tự kiểm tra kiến thức của mình. Vì vậy, giáo viên cần rèn kĩ năng đặt câu hỏi để tiết dạy của mình đạt hiệu quả cao.
	2. Giải pháp thứ hai: Khai thác triệt để các kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học môn Toán.
a. Kĩ thuật khăn trải bàn. 
 Kĩ thuật khăn trải bàn là một kĩ thuật dạy học đơn giản dễ thực hiện, giống như học theo nhóm trong mô hình trường học mới VNEN. Tuy nhiên kĩ thuật khăn trải bàn khắc phục được những hạn chế của học theo nhóm. Trong học theo nhóm, nếu tổ chức không tốt, đôi khi chỉ có các thành viên tích cực làm việc, các thành viên khác thụ động, ỷ lại chờ đợi dẫn đến mất nhiều thời gian và hiệu quả học tập không cao. Kĩ thuật khăn trải bàn đòi hỏi tất cả các thành viên đều phải hoạt động theo các bước cụ thể:
* Bước 1 (làm việc chung cả lớp): Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ, giao nhiệm vụ cho các nhóm và hướng dẫn cách làm việc của nhóm.
* Bước 2 (làm việc chung theo nhóm): 
- Phân công trong nhóm, cá nhân làm việc độc lập từ 3-5 phút.
- Trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm (chia sẻ câu trả lời), cuối cùng đại diện nhóm trình bày kết quả làm việc đã thống nhất của cả nhóm. 
* Bước 3 (thảo luận tổng kết trước lớp): Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả thảo luận, thảo luận chung cả lớp, giáo viên tổng kết và đặt vấn đề cho bài học hoặc nội dung tiếp theo.
 *@ Ví dụ: Khi dạy bài “Dấu hiệu chia hết cho 2, dấu hiệu chia hết cho 5” (Trang 78 sách hướng dẫn học Toán 4 tập 1B). 
 * Bước 1 (làm việc chung cả lớp): Giáo viên nêu nhiệm vụ : “Dựa vào bảng chia 5, tìm các số chia hết cho 5 ?”
* Bước 2 (làm việc nhóm): Giáo viên phát cho mỗi nhóm (4 học sinh/ nhóm) một bảng phụ đã kẻ sẵn.
- Mỗi em ngồi vào vị trí như hình chụp, nhóm trưởng hướng dẫn các bạn tự nhớ lại bảng chia và ghi những số chia hết cho 5, viết vào phần ô của mình trong vòng 3 phút. 
- Bạn thư kí ghi những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (ô ý kiến chung của cả nhóm).
* Bước 3: Thảo luận tổng kết trước lớp:
Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả thảo luận, thảo luận chung cả lớp, giáo viên tổng kết và nhận xét bài làm của các nhóm.
- Vậy các số có chữ số tận cùng là bao nhiêu thì chia hết cho 5? (học sinh lần lượt trả lời)
- Học sinh rút ra dấu hiệu chia hết cho 5: số có chữ số ở tận cùng là 0 và 5 thì chia hết cho 5. 
- Giáo viên kết luận: Các số có chữ số tận cùng là 0 hoặc 5 thì chia hết cho 5. 
Thảo luận nhóm theo kĩ thuật “khăn trải bàn”
 
 Việc sử dụng kĩ thuật này buộc học sinh phải hoạt động độc lập và kết quả hoạt động đó được ghi vào ô của mình trước khi ghi vào phần chung của nhóm. Qua quan sát khăn trải bàn giáo viên thấy được sản phẩm của từng học sinh để có thể bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Cũng cần chú ý, nếu nhóm lớn hơn 4 thì vẫn có thể áp dụng được kỹ thuật này bằng cách phân thành các phần tương ứng trên khăn trải bàn. Rõ ràng, khi áp dụng kĩ thuật này thì tất cả thành viên đều tích cực làm việc; hạn chế được các thành viên thụ động, chờ đợi kết quả. Như vậy, sự khó khăn của tôi trong việc khắc phục sự ỷ lại của học sinh sẽ được tháo gỡ một cách hiệu quả. 
 b. Kĩ thuật các mảnh ghép.
 Kĩ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
- Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề).
- Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh.
- Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2).
Cách tiến hành (như hình vẽ)1
3
2
1
2
3
1
2
3
Vvvr4ygrghrhrhrrhr
1
1
1
2
2
2
3
3
3
*Vòng 1
chi
C
*Vòng 2
Vòng 1 ( Nhóm chuyên gia) : Hoạt động theo nhóm 3 người: Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ (Ví dụ Nhóm 1: nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B; nhóm 3: nhiệm vụ C). Mỗi thành viên trong nhóm làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình, trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm và sẽ trở thành chuyên gia trong nhóm mới thuộc vòng 2 (ở vòng 1 các nhóm chưa báo cáo kết quả của nhóm mình mà chuyển sang nhóm ở vòng 2).
Vòng 2 (Nhóm các mảnh ghép) : Hình thành nhóm 3 người mới (một người từ nhóm 1, một người từ nhóm 2, một người từ nhóm 3). Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau. Nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết.Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả. Chú ý tuỳ theo nội dung của bài học mà có thể chia nhóm ở vòng 1 với số lượng học sinh khác nhưng vẫn phải đảm bảo kĩ thuật các mảnh ghép.
M
N
P
Q
E
G
K
H
A
B
C
D
	@ Ví dụ: Nêu tên các cặp cạnh đối diện trong: Hình chữ nhật ABCD ;hình bình hành EGHK; hình tứ giác MNQP.(Bài 2 /trang 14 sách hướng dẫn học Toán 4 tập 2A.) 
Với bài này tôi áp dụng kĩ thuật các mảnh ghép như sau:
* Vòng 1: Chia lớp thành 3 nhóm, phát cho mỗi bạn trong nhóm một tờ giấy màu. Mỗi nhóm một màu khác nhau và giao nhiệm vụ:
+ Nhiệm vụ A: Hãy nêu tên các cặp cạnh đối diện trong hình chữ nhật ABCD.
+ Nhiệm vụ B: Hãy nêu tên các cặp cạnh đối diện trong hình bình hành EGHK.
+ Nhiệm vụ C: Hãy nêu tên các cặp cạnh đối diện trong hình tứ giác MNQP.
Các em đã được học các đặc điểm của các hình: hình chữ nhật, hình bình hành, hình tứ giác. Tương ứng với 3 nhiệm vụ có thể giao cho 3 nhóm học sinh thực hiện như sau:
+ Nhóm 1: Thực hiện nhiệm vụ A
(Các cặp cạnh đối diện trong hình chữ nhật ABCD là : AB và CD; AC và BD)
+ Nhóm 2: Thực hiện nhiệm vụ B
(Các cặp cạnh đối diện trong hình bình hành EGHK là: EG và KH; EK và GH)
+ Nhóm 3: Thực hiện nhiệm vụ C.
(Các cặp cạnh đối diện trong hình tứ giác MNQP là: MN và QP; MP và NQ)
* Vòng 2 Thực hiện phân lại nhóm : Các em ở nhóm thuộc vòng 1 sẽ tách ra và hợp thành nhóm mới ở vòng 2 như sau: Giáo viên yêu cầu 3 bạn có ba màu khác nhau hợp thành một nhóm. Lúc này giáo viên mới đưa ra nhiệm vụ: bài toán ban đầu chính là hợp của 3 nhiệm vụ A, B, C. Cho các em thảo luận theo nhóm mới và đại diện nhóm trình bày kết quả, nhóm khác nhận xét, bổ sung.
 Làm như vậy, việc thực hiện một nội dung dạy học nào đó sẽ giảm bớt lượng thời gian đáng kể và độ khó của bài tập được chia nhỏ nhưng vẫn đạt được mục tiêu bài học.
Một vài lưu ý khi thực hiện dạy học theo kĩ thuật “Các mảnh ghép”: 
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với nhiều chủ đề nhỏ trong tiết học, học sinh được chia nhóm ở vòng 1 (chuyên gia) cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Phiếu học tập mỗi chủ đề nên sử dụng trên giấy cùng màu có đánh số 1,2,...
- Sau khi các nhóm ở vòng 1 hoàn tất công việc giáo viên hình thành nhóm mới (mảnh ghép) theo số đã đánh, có thể có nhiều số trong 1 nhóm mới. Bước này phải tiến hành một cách cẩn thận tránh làm cho học sinh ghép nhầm nhóm gây mất trật tự trong giờ học.
c. Kĩ thuật trình bày một phút.
 Kĩ thuật trình bày một phút là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh nêu lên hướng giải quyết một vấn đề trong học tập hoặc tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc của mình bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Thông qua phần trình bày của học sinh sẽ giúp củng cố quá trình học tập và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.
 Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau: Cuối tiết học (hoặc giữa tiết học), giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau như : Em có thể nêu cách giải bài toán này ? , Điều quan trọng nhất trong tiết học Toán hôm nay

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_su_dung_ki_thuat_phuong_phap_day_hoc_t.doc